Tổng hợp các bài văn nghị luận về tác phẩm Lai Tân – Hồ Chí Minh

Bài thơ “Lai Tân” là bài thơ thứ 31, trích “Nhật ký trong tù” của Hồ Chí Minh được sáng tác trong khoảng bốn tháng đầu của thời gian Bác bị giam giữ tại các nhà tù của bọn Quốc dân đảng Trung Quốc ở Quảng Tây. Bài thơ miêu tả thực trạng thối nát của chính quyền Trung Quốc dưới thời Tưởng Giới Thạch và thái độ châm biếm, mỉa mai sâu cay. Mời các bạn đọc tham khảo một số bài văn phân tích tác phẩm Lai Tân – Hồ Chí Minh mà chúng tôi đã tổng hợp trong bài viết sau đây.

Tổng hợp các bài văn nghị luận về tác phẩm Lai Tân – Hồ Chí Minh

Bài văn phân tích tác phẩm “Lai Tân” của Hồ Chí Minh số 1

“Nhật kí trong tù” của Hồ Chí Minh được kết hợp từ hai yếu tố “trữ tình” và “hiện thực”, “Lai Tân” là một trong những bài thơ thể hiện rõ những yếu tố đó. Nó là một thành công của Bác trong việc kết hợp bút pháp tả thực và trào phúng vẽ nên bức tranh thời sự về chế độ xã hội Tưởng Giới Thạch. Với tư cách là người thư ký trung thành của thời đại, Bác đã ghi lại một cách khách quan những cảnh:

“Giam phòng ban trưởng thiền thiên đổ

Cảnh trưởng tham thôn giải phạm tiền

Huyện trưởng thiêu đăng biện công sự”

Khác với Tú Xương trong hoàn cảnh tự do nên có ‘thể thẳng tay độp vào mặt bọn thông trị những cái tát giáng trời:

“Ớ phố Hàng Song thật lắm quan

Thành thì đen kịt, Đốc thì lang

Chồng chung vợ chạ kìa cô Bố

Dậu lạy quan xin nọ chú Hàn”

(Lắm quan)

Hồ Chí Minh chỉ có thể mỉa mai, châm biếm sâu cay bọn thông trị bằng ngòi bút trong hoàn cảnh tù đày, gông xiềng. Từ cái mặt bên ngoài đến tận cùng những ngóc ngách bên trong của bộ máy thống trị Trung Hoa quốc dân đảng đã chứa đầy những mâu thuẫn. Tác giả “Lai Tân” đưa ra ba gương mặt điển hình của bộ máy chính quyền Tưởng Giới Thạch đó là: “Ban trưởng”,”cảnh trưởng”, “huyện trưởng”.

Cái chức “trưởng’ của họ khá oai vệ, đầy uy lực, nhưng việc làm của họ đầy khuất tất, bất chính. Khuôn khổ bài thơ rất ngắn gọn nhưng lại được đặt liên tiếp ba chừ “trường” trong ba câu thơ đầu là sự “cố tình” dùng phép lặp của Bác trong việc dựng lên những chân dung tiêu biểu của giai cấp thống trị.

Ba câu thơ – mỗi câu là một bức tranh sống động mang tính thời sự nóng hổi, chân thật đến từng chi tiết được vẽ bằng nét bút bình thản, lạnh lùng. Bức thứ nhất bày ra trước mắt mọi người là hình ảnh một “ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc”. Bức thứ hai là hình ảnh “cảnh trưởng tham lam ăn tiền phạm nhân bị giải”.

Cả ban trưởng và cảnh trưởng đều là những công cụ thi hành pháp luật rất đắc lực của cái xã hội đầy rẫy những bỉ lậu, xấu xa. Chúng khoác trên mình chiếc áo “công lý” để làm những việc “bất công lý” một cách thường xuyên hết ngày này đến ngày khác. Chức “trưởng” của chúng đã to, sự phạm pháp của chúng còn lớn hơn ngàn vạn lần. Tiếng cười trào lộng bật lên từ nghịch cảnh đó.

Thoạt tiên, mới nhắc đến “ban trưởng”, “cảnh trưởng” thiết tưởng đó là những người cầm cân nẩy mực chắc hẳn phải công minh, trong sạch nhưng ta thực sự bất ngờ khi biết chúng chẳng qua là những con mọt dân, gây rối, bắt bớ dân để mà tham nhũng, cờ bạc. Chúng mượn cái danh để tự đặt ra cho mình cái quyền thích làm gì thì làm.

Đất Lai Tân có ban trưởng, cảnh trưởng tưởng chừng cuộc sống bình yên nhưng trớ trêu thay trật tự an ninh không được đảm bảo, những vi phạm pháp luật vẫn diễn ra đầy rẫy mà những kẻ đứng đầu bộ máy thống trị ở Lai Tân cũng chính là những kẻ cầm đầu những chuyện phạm pháp đó. Nực cười thay, nhà tù là nơi giam giữ những kẻ phạm tội vậy mà lại chính là nơi để tội phạm có thể thịnh hành rộng rãi nhất, tiêu biểu hơn cả, nhiều hơn cả vẫn là tội phạm cờ bạc mà chính giai cấp thống trị nhà lao cũng là những “đổ phạm”.

Cái nghịch cảnh “đánh bạc ở ngoài quan bắt tội, trong tù được đánh bạc công khai” là hiện thực thối nát của nhà tù Tưởng Giới Thạch không thể phủ nhận được. Cấp dưới sống và hành động bê tha, tàn ác như thế, vậy mà cấp trên – huyện trưởng – vẫn đêm đêm “chong đèn lo công việc”.

Mức độ mỉa mai, châm biếm của tác giả tăng dần. Kích thước của những bức tranh về sau to hơn, rộng hơn bức trước. Từ chân dung một ban trưởng trông coi một phạm vi nhà tù nhỏ hẹp tới một cảnh trưởng cai quản một địa phận lớn hơn đến một huyện trưởng cai trị một vùng rộng lớn và bao quát cả quyền của ban trưởng cảnh trưởng.

Bức tranh thứ ba mở ra hình ảnh “Huyện trưởng thiêu đăng biện công sự’ vẻ ngoài tưởng mẫu cách, sát sao với “công việc” nhưng thực ra lại là một kẻ quan liêu, vô trách nhiệm, không biết tay chân, cấp dưới làm những gì, phạm pháp những gì. Câu thơ phạm luật “nhị tứ lục phân minh” ở một chữ “công”.

Bao mỉa mai, đả kích sâu cay dồn nén vào một chữ “công” đó. Huyện trưởng “lo công việc” hay là mượn “việc công” để tạo một tấm bình phong che cho mình “io việc riềng”, “chong đèn’ hút thuốc phiện? Tác giả đặt chữ “đăng” chính giữa câu thơ không nhằm mục đích tỏa sáng chận dung huyện trưởng mà nhằm đối lập, phản chiếu cái tối tăm của bộ máy thông trị Lai Tân (nói riêng), hệ thống chỉnh quyền Tưởng Giới Thạch (nói chung). Giữa thực trạng ấy, thử hỏi bình yên ở đâu? Câu trả lời là: Bình yên vẫn ở chốn Lai Tân này!

“Trời đất Lai Tân vẫn thái bình” Câu trả lời bất ngờ đến mức khiến người đọc ngã ngửa người. Thì ra là thế! Lời bình giá đã đi ngược lại với tất cả những mục ruỗng, thối nát của chính quyền Tưởng Giới Thạch được phơi bày ở trên. Từ lời bình giá đó đã vút lên một lời đã kích mạnh mẽ. Tác giả “Lai Tân” đã kết luận đầy châm biếm, mỉa mai sắc sảo và rất hùng hồn về cái xã hội ấy. Thủ pháp nói ngược của Bác đã làm bật ra tiếng cười trào phúng.

“Trời đất Lai Tân vẫn thái binh”. Đúng vậy! Nhưng chỉ một chữ “vẫn” cũng đủ “điếng người’. Một cái bĩu môi dài, một cái cười khẩy, một giọng mĩa kéo dài bắc đầu từ chữ “vẫn” ấy. Nghệ thuật nâng cao – quật mạnh, nâng cao 1 quật càng được Bác sử dụng rất công hiệu ở câu thơ cuối bài này đã lay tỉnh người đọc nhìn sâu vào xã hộ ấy mà xem xét, đánh giá đúng thực chất của nó.

Như con đà điểu thấy nguy hiểm là húc đầu vào sâu trong cát, giai cấp thống trị ở Lại Tân thấy trời đất thái bình là tưởng thây yên ổn chúng bằng lòng với cách thái bình đó mà không ngờ rằng dó chi là cảnh thái bình giả dối, trong đó chất chứa rất nhiều sóng gió, hiểm nguy. Điều ấy cũng thể hiện sự ngu dốt, vô trách nhiệm hết sức của bọn chúng. Ba bức tranh – ba chân dung của ba kẻ đại diện cho giai cấp thông trị chế độ Tưởng Gịới Thạch ghép lại với nhau thành một bức tranh lớn – một chân dung lớn đầy đủ, trọn vẹn về xã hội Trung Hoa quốc dân đảng.

Với “nghệ thuật vế đường tròn dồng tâm”t tác giả “Lai Tân’ đã vẽ được một bức tranh sinh động mỗi lúc một toàn diện hơn chế độ xã hội Tưởng Giới Thạch. Nhà “dột từ nóc dột xuống” chỉ qua một huyện Lai Tân mà cả bộ mặt thối nát, bỉ lậu của xã hội Tưởng được phơi bày. Tác giả đã phủ định triệt để tận gốc giai cấp thống trị ấy. Cái “loạn” của mảnh đất Lai Tân được tô đậm bằng màu xám, màu tối của những bê tha, xấu xa, vô trách nhiệm, rất quan liêu của văn võ bá quan.

Và hơn thế, nó được “trang trí” bằng sự “thái bình” nhưng ai cũng hiểu trời đất Lai Tân “thái bình” như thế nào. Cách kết thúc bài thơ của Hồ Chí Minh giống lối thơ trào phúng truyền thống của các nhà thơ trào phúng Việt Nam như Tú Xương, Nguyễn Công Trứ, Hồ Xuân Hương… đồng thời đậm chất (gây cười) của phương Tây. Hai chữ Lai Tân dường như không chỉ là một tên huyện đơn thuần mà tự bản thân nó đã mang một lớp nghĩa là mảnh đất mới, sáng sủa, bình yên. Và quả thật, huyện Lai Tân rất bình yên – bình yên “như xưa”.

Nhưng “như xưa” ở đây nghĩa là sự trì trệ, là chậm chạp không phát triển đã thành truyền thông; “như xưa” là không hề đổi thay, là duy trì những cái xâu xã, bĩ lậu của ngày trước. Hồ Chí Minh đã đả kích trực tiếp và khách quan chế độ Tưởng, do đó sức tế cáo, châm biếm của nó rất mạnh mẽ, quyết liệt. Bác đã giáng những đòn liên tiếp, chính xác vào xã hội ấy khiến nó phải “quần lèn” ở nhát đòn quyết định có tên là “thái bình”.

Không phải chỉ ở “Lai Tân” mà ở rất nhiều bàỉ thơ khác của “Nhật ki trong tu Bác cũng đã đả kích châm biếm sâu sắc xã hội Tưởng Giới Thạch như “Trảng binh gia quyến”, “Đổ”, “Đổ phạm’. Đó là “những ngón đòn trào phúng thâm thúy mà Bác đă đánh thẳng vào kẻ thù, vạch trần cái vô lý, tàn tệ” của chế độ ấy khiến “ta cười ra nước mắt”.

Tiếng cười trào lộng cất lên vừa trữ tình, vừa đẩm chất trí tuệ khiến ta thoải mái, hả hê. Ta chợt nhớ tới Tú Xương ngày trước cũng từng có một tiếng cười trào lộng như thế: “Tri phủ Xuân Trường được mấy niên Nhờ trời hạt ẩy cùng bình yên”. (Đừa ông phủ)

Tiếng cười dân tộc đã thâm nhuần trong thơ hiện thực trào phúng của Hồ Chí Minh mà càng đọc ta càng thây nó sâu cay. “Lai Tân” là một bài thơ cũng năm trong số đó. Vừa có ý nghĩa hiện thực chân xác, vừa mang tính chiến đâu sắc mạnh tố cáo châm biếm cao độ, bài thơ đã giúp ta hiểu thêm về xã hội Tưởng Giới Thạch và hiểu hơn tâm hồn tài năng của Bác.

Bài văn phân tích tác phẩm “Lai tân” của Hồ Chí Minh số 2

Nhật kí trong tù là tập nhật kí bằng thơ do Hồ Chí Minh viết ròng rã hơn một năm trời trong các nhà tù của chính quyền Tưởng Giới Thạch ở tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. Trước hết, đây là tập thơ Bác viết cho chính mình, với mục đích:

Ngày dài ngâm ngợi cho khuây,

Vừa ngâm vừa đợi đến ngày tự do

mà Bác đã viết ở bài Khai quyển đầu cuốn sổ tay. Vì thế mà Bác ghi lại vắn tắt những điều tai nghe mắt thấy làm cho mình trăn trở, suy nghĩ và xúc cảm trong suốt mười bốn tháng bị giam cầm. Lai Tân là bài thơ thứ 97, Bác làm sau khi bị chuyển lao từ Thiên Giang đến Lai Tân. Đằng sau bức tranh tả thực có vẻ như rất khách quan là thái độ mỉa mai, châm biếm và phê phán của người tù Hồ Chí Minh đối với giai cấp thống trị ở Lai Tân nói riêng và chế độ xã hội Trung Quốc đương thời nói chung.

Phiên âm chữ Hán:

Giam phòng ban trưởng thiên thiên đổ,

Cảnh trưởng tham thôn giải phạm tiền;

Huyện trưởng thiêu đăng biện công sự,

Lai Tân y cựu thái bình thiên.

Dịch nghĩa:

Ban trưởng nhà giam ngày ngày đánh bạc,

Cảnh trưởng tham lam ăn tiền phạm nhân bị giải;

Huyện trưởng chong đèn làm việc công,

Lai Tân vẫn thái bình như xưa.

Dịch thơ:

Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc,

Giải người, cảnh trưởng kiếm ăn quanh.

Chong đèn, huyện trưởng làm công việc,

Trời đất Lai Tân vẫn thái bình.

Bức tranh về hiện thực ở nhà tù Lai Tân và một phần xã hội Trung Quốc thu nhỏ đã được Hồ Chí Minh phản ánh sinh động trong bài thơ thất ngôn tứ tuyệt ngắn gọn mà ý nghĩa vô cùng hàm súc. Thành công của bài thơ là nghệ thuật châm biếm sắc sảo, độc đáo kết hợp với giọng điệu tự sự xen lẫn trữ tình và một kết cấu chặt chẽ, hợp lí.

Kết cấu bài thơ gồm hai phần nhưng khác với cấu trúc thông thường của tứ tuyệt Đường luật ở chỗ: phần thứ nhất gồm ba câu, còn phần thứ hai chỉ có một câu. Ba câu thơ đầu chỉ đơn thuần kể việc. Điểm nút chính là câu thứ tư bởi nó làm bật ra toàn bộ tư tưởng của bài thơ và làm bung vỡ tất cả cái ý châm biếm mỉa mai của người tù Hồ Chí Minh trước sự thối nát đến tận xương tủy của đám quan chức trong giai cấp thống trị.

Ở phần thứ nhất, Hồ Chí Minh đã phác họa thần tình chân dung của ba nhân vật “quan trọng”. Ban trưởng nhà lao công khai đánh bạc ngày này qua ngày khác, trong khi: Đánh bạc bên ngoài quan bắt tội. Cảnh trưởng thì trắng trợn ăn tiền đút lót của tù nhân, còn huyện trưởng thì đêm đêm chong đèn… hút thuốc phiện. Chính những kẻ đại diện cho chính quyền, cho luật pháp lại ngang nhiên vi phạm pháp luật.

Điều trái ngược ấy đã vượt ra khỏi khung cảnh của một nhà tù, trở thành tính chất tiêu biểu cho cả xã hội Trung Hoa thời ấy: Quan trên trì trệ, vô trách nhiệm, hưởng lạc; cấp dưới thì chỉ lo xoay xở kiếm ăn quanh, mặc cho mọi tệ nạn cứ tự do hoành hành. Hơn thế, điều đáng mỉa mai là chính bọn quan lại tham lam, nhũng nhiễu ấy đã “tích cực” góp phần làm gia tăng tệ nạn xã hội.

Ba nhân vật đang hoạt động như trong một màn hài kịch câm và cả ba đang thủ vai một cách hết sức “nghiêm túc” giữa khung cảnh thái bình (?!) dưới sự thống trị của họ Tưởng. Câu thơ miêu tả ngắn gọn mà lại hàm ý mỉa mai sâu sắc, tố cáo tình trạng lộn xộn, bát nháo của xã hội Trung Quốc lúc đó.

Phần thứ hai (câu cuối cùng) là nhận xét có tính chất trào lộng thâm thúy của người tù Hồ Chí Minh về tình trạng của bộ máy cai trị ở Lai Tân. Người đọc chờ đợi gì ở câu kết luận này ? Chắc hẳn phải là một sự lên án quyết liệt. Nhưng tác giả đã không làm như thế mà lại hạ một câu có vẻ rất khách quan: Trời đất Lai Tân vẫn thái bình. Đòn đả kích bất ngờ mà sâu cay lại nằm ngay trong câu nhận xét tưởng như là ca ngợi ấy.

Hiệu quả đả kích của câu thơ như thế nào? Hoá ra tình trạng thối nát của bọn quan lại ở Lai Tân không phải là chuyện bất thường mà là chuyện bình thường. Bình thường đến nỗi đã trở thành bản chất, thậm chí đã thành “nề nếp” được chấp nhận từ lâu.

Câu kết tưởng chừng có vẻ hết sức “vô tư” kia ai ngờ lại ẩn giấu một tiếng cười mỉa mai, châm biếm, lật tẩy bản chất xấu xa của bộ máy thống trị ở Lai Tân. Tính từ thái bình có thể xem là “thần tự”, “nhãn tự” của bài thơ. Nhà thơ Hoàng Trung Thông đã có một lời bình thật chính xác và thú vị: “Một chữ thái bình mà xâu táo lại bao nhiêu việc làm trên vốn là muôn thủa của giai cấp bóc lột thống trị Trung Quốc. Chỉ một chữ ấy mà xé toang tất cả sự thái bình dối trá nhưng thực sự là đại loạn bên trong”.

Bài thơ Lai Tân in đậm bút pháp nghệ thuật chấm phá truyền thống của thơ Đường. Lời thơ ngắn gọn, súc tích, không cầu kì câu chữ, nhưng chỉ với bốn câu thơ ngắn, người tù Hồ Chí Minh đã phơi bày bản chất của cả chế độ Tưởng Giới Thạch suy thoái, mục nát. Sức chiến đấu, chất “thép” của bài thơ nhẹ nhàng mà thâm thúy chính là ở đó.

Bài văn phân tích tác phẩm “Lai tân” của Hồ Chí Minh số 3

Vào khoảng những năm ba mươi của thế kỷ XX, trên văn đàn Việt Nam đã dần dần có một sự trưởng thành mới. Thi ca giờ đây của Việt Nam không còn bị lệ thuộc vào những quy ước khắt khe của Nho gia rằng tất cả nhà thơ không được bộc lộ cái tài một cách tự do. Bước vào giai đoạn này, mỗi thi sĩ lại hiện diện trên văn đàn với một tư thế rất riêng, của riêng mình. Cũng bởi vì cái riêng này, họ – thi sĩ thời đại mới – đã có những định nghĩa rất khác về thơ. Nếu Xuân Diệu cho rằng:

“Là thi sĩ nghĩa là ru với gió

Mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây”

thì Hàn Mặc Tử lại nói: “Thi sĩ là người gánh trên vai cả nỗi đau nhân loại”. Câu hỏi đặt ra rằng “nỗi đau nhân loại” đó là gì? Có thể là nỗi phiền muộn “tương tư” như Nguyễn Bính chăng? Hay là tư thế “không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà” của Huy Cận? Bên cạnh những nỗi đau trên, Hồ Chí Minh cũng đã “vô tình” thêm vào “nỗi đau nhân loại” kia một góc nhìn rất khác. Đó là góc nhìn vào cái xấu xa, thối nát của xã hội.

Không còn chỉ là gói gọn trong “vòng trời đất dọc ngang ngang dọc” của đất Việt mà đã chạm đến cái mục rửa của xã hội Trung Quốc do chính quyền Tưởng Giới Thạch đứng đầu lúc bấy giờ. Tuy rằng “ngâm thơ ta vốn không ham” nhưng nếu là con người thì Hồ Chí Minh lại thờ ơ với những gì chướng tai gai mắt thế sao? Chỉ gói gọn trong bài thơ “Lai Tân”, tác giả đã nhẹ nhàng nhưng lại đả kích sâu cay một xã hội

“Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc

Giải người, cảnh trưởng kiếm ăn quanh

Chong đèn, huyện trưởng làm công việc

Trời đất Lai Tân vẫn thái bình”

Vì là người tù của chế độ Tưởng Giới Thạch nên không có gì khó hiểu khi tác giả lại vẽ ra một bức tranh hiện thực sắc sảo đến thế. Khi lược đọc qua bài thơ, người ta sẽ dễ dàng nhận thấy một nghịch lý – một nghịch lý rất lớn. Đúng rằng không thể phủ nhận được trong thi ca không được có những nghịch lý. Thi ca vẫn được quyền có những nghịch lý.

Những nghịch lý đó đôi khi là cảnh “Hầu trời” của Tản Đà hay làm sao có thể được khi Xuân Diệu lại muốn “cắn” vào “xuân hồng”. Tuy là nghịch lý đấy nhưng tất cả đều mang trong mình một nét dễ thương của con người “ru với gió, mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây”. Nghĩa là tuy nghịch lý về vật chất nhưng lại hợp lý trong tâm khảm.

Cái nghịch lý ở đây mà Hồ Chí Minh đặt ra cũng thế. Cái nghịch lý này giờ đây đã kèm theo chút nóng giận, bực tức. Làm sao có thể được khi một xã hội “ban trưởng chuyên đánh bạc”, “cảnh trưởng” lại “kiếm ăn quanh” mà “trời đất Lai Tân vẫn thái bình”? Quả thật, nếu như định nghĩa rằng “ban trưởng” là người trông coi nhà lao và “cảnh trưởng” là những người có nhiệm vụ giải tù nhân. Tất cả họ dường như đều chung một công việc là giáo dục tù nhân, giúp tù nhân tốt hơn. Nhưng thực tế thì không phải vậy.

Trong cái nghịch lý chủ đạo đã trình bày thì lại đâu đó nhen nhóm lên những nghịch lý khác. Chính là tại sao trong tù lại có cái nạn đánh bạc? Vẫn biết rằng chính xã hội lúc bấy giờ bên Trung Quốc thì món đánh bạc bị luật cấm. Nếu như anh đánh bạc thì không những anh, mà cả vợ con anh cũng bị liên lụy; còn riêng anh, anh phải đi tù. Đó là một thực tế và thực tế này đã được Hồ Chí Minh phác lại qua một lời ăn năn, hối tiếc của tên tù cờ bạc:

“Đánh bạc ở ngoài quan bắt tội

Trong tù đánh bạc được công khai

Bị tù con bạc ăn năn mãi

Sao trước không vô quắt chốn này?”

Chính bài thơ trên đã vẽ ra rất khéo sự lạm quyền đến khốn nạn của chế độ lúc đó. “Con bạc” kia bị tù là đáng rồi, thích đáng cho việc hắn làm. Nhưng làm sao có thể im lặng được khi cái kẻ bắt mình vì tội đánh bạc thì chính y cũng đánh bạc. Thế là cả cai tù và phạm nhân đều là tòng phạm. Cùng đánh bạc với nhau cả thôi, nếu tôi có tội thì anh cũng chẳng thoát; thế mà lấy cái tư cách gì mà anh bắt tôi?

Quả đúng như thế, vị quan kia không có tư cách để “bắt tội” nhưng hắn có quyền. Hắn có quyền, cái quyền mà chế độ Tưởng Giới Thạch đã “ban tặng” cho hắn. Và rồi cái nghịch lý ở đây là nhà lao giờ đây đã bị biến thành sòng bạc “được công khai”. Tại đây, ngay cái nơi mà tù nhân ước gì mình đừng vô đây lại được cấp giấy phép đánh bạc.

Ngay cả đến “con bạc ăn năn mãi”: thà lúc trước vào đây đánh bạc để khỏi bị kết tội. Nực cười chăng? Cũng có thể. Chua cay chăng? Cũng có thể. Đau đớn chăng? Cũng có thể. Cái nhà tù Tưởng Giới Thạch là thế đấy! Và rồi, không chỉ có nạn đánh bạc vậy đâu mà nơi đây còn bị Hồ Chí Minh chụp ảnh lại: “Giải người, cảnh trưởng kiếm ăn quanh”.

Lại thêm cái nạn hối lộ. Đã quá đong đầy những sự thối nát, mục rửa của nhà tù Tưởng Giới Thạch. Khi bước vào lao tù, phạm nhân luôn ý thức rằng này đây mình sẽ bị đánh, bị đối xử có thể thậm chí như một súc vật. Biết là thế nhưng nếu với ý nghĩa nhà tù là nơi cải tạo phạm nhân thì lại sao có cái tình trạng hối lộ? Nghịch lý! Ở một bài thơ khác, tác giả cũng đã khắc lại cái trớ trêu, cái khốn nạn của thói ăn hối lộ này một cách rất chân thực:

“Mới đến nhà lao phải nộp tiền

Lệ thường ít nhất năm mươi nguyên

Nếu anh không có tiền đem nộp

Mỗi bước anh đi một bước phiền”

Thì ra cái thói ăn hối lộ là một “lệ thường”. Bây giờ đã rõ đến tận gốc rễ của sự việc. “Cảnh trưởng” dường như có được cái quyền làm cho “mỗi bước anh đi một bước phiền” nếu như tù nhân không có “năm mươi nguyên” đem nộp. Ở nơi “tối tăm mù mịt ấy”, tác giả đã thấy, đã chua xót, đã cay đắng vì cái nghịch lý khốn nạn, trớ trêu này. Dường như tác giả đang tìm một sự hợp lý nào đó.

“Chong đèn, huyện trưởng làm công việc” Tưởng chừng như “huyện trưởng” là một vị quan rất lo cho dân, rất thương dân nên khi đêm đã về, vạn vật như chìm đắm trong giấc mộng thì ông lại “thiêu đăng” để làm việc. Điều này thật là quý hóa! Nhưng câu hỏi đặt ra nếu như ông ta lo lắng cho dân, cho nước như thế thì tại sao cấp dưới của ông ta lại xảy ra, xuất hiện những thói đời như thế.

Phải chăng ông là người có tài nhưng lại bất lực; hay ông cố tình cho qua và “cho phép” cấp dưới được quyền như thế? Vấn đề đặt ra tiếp theo rằng phải chăng “huyện trưởng” đã được cấp dưới đút lót? Đó quả là một câu hỏi lớn – một câu hỏi phải để cho chính chế độ đó trả lời. Một mặt khác, nếu như đánh đồng những đối tượng trong ba câu thơ đầu thì có lẽ “huyện trưởng” hằng đêm “thiêu đăng” để hút thuốc phiện. Không phải một cách cường điệu mà ghép hết tội này đến tội khác cho ông; nhưng dù có cố tìm một lý do chính đáng cho những hành động giữa đêm như thế trong bối cảnh này cũng là khó khăn.

Chỉ cần lướt qua ba câu thơ đầu của “Lai Tân”, người đọc đã có thể thấy đó như một thước phim mà tác giả đang cố tái hiện lại một cách chân thực. Thước phim này chiếu lại một bộ máy cai trị ở Lai Tân gồm “ban trưởng”, “cảnh trưởng”, “huyện trưởng” với những việc làm xem ra là bình thường trong cái xã hội bấy giờ. Bình thường đến mức tầm thường! Thực tế là vậy. Một điều minh nhiên rằng cái xã hội đó sẽ không “thái bình”. Nhưng đến câu cuối bài thơ, với tất cả những sự việc như thế mà tác giả lại kết luận rằng: “Trời đất Lai Tân vẫn thái bình”.

Dường như là dửng dưng và vô cùng nghịch lý. Tuy là thế nhưng tác giả đã sâu cay đả kích một cách nhẹ nhàng nhưng lại thấm thía. Nhãn tự “thái bình” đồng thời vừa vạch ra một nghịch lý, vừa vẽ ra một hợp lý mang “phong cách” Tưởng Giới Thạch. Phải chăng “thái bình” là do được sự đồng lòng nhất quán từ “cảnh trưởng”, “ban trưởng” đến “huyện trưởng”. Tất cả đều như nhau, cũng thối nát, mục rữa.

Lại thêm với nhãn tự “thái bình”, tác giả dường như đang khẳng định rằng tình trạng của chế độ thống trị xã hội Trung Quốc bấy giờ vẫn xảy ra bình thường, không có gì phải lạ cả, thậm chí điều đó gần như là bản chất của guồng máy cai trị ở đây. Chỉ cần như thế thôi, tác giả đã mỉa mai châm biếm cái xã hội dưới thời Tưởng Giới Thạch đó một cách sâu sắc đến vậy. Sâu sắc là bởi thi nhân đã nhìn thấy vào trong cái sự thật đã được che đậy bằng bề mặt giả tạo của bộ máy cai trị này.

Hồ Chí Minh dường như đã thật sự trở thành một thi sĩ vì tác giả đã “gánh trên vai cả nỗi đau nhân loại”. Thi nhân vừa thương vừa đả kích mạnh mẽ. Bút pháp châm biếm nhẹ nhàng mà thấm thía cùng nhãn tự “thái bình” đặc biệt xen giữa nhịp thơ 4/3 đã giúp thi sĩ hoàn thành “Lai Tân”. Rất chính đáng, vô lý nhưng lại có lý hết lời!

Bài văn phân tích tác phẩm “Lai tân” của Hồ Chí Minh số 4

Tập thơ Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh gồm những bài thơ có tính nhật kí, tác giả ghi lại những sinh hoạt trong tù, ghi lại tâm tư, tình cảm của chính tác giả trong những ngày đen tối chốn tù lao, hoặc ghi lại những điều tai nghe mắt thấy trên đường bị giải từ nhà lao này sang nhà lao khác. Duy có bài thơ Lai Tân là có giá trị tổng kết hiện thực trong và ngoài nhà tù, phác họa được bộ mặt của nhà cầm quyền trong và ngoài nhà tù ở huyện Lai Tân mà cũng là bộ mặt điển hình cho nhà cầm quyền Trung Quốc dưới thời Quốc dân đảng bấy giờ.

Bài thơ mở đầu như văn phóng viên, lạnh lùng mà trung thực: Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc. Hồ Chí Minh làm thơ, nhưng cũng đừng quên Người là một nhà báo lừng danh thời hoạt động cách mạng ở Pháp, đã từng làm chủ bút báo Người cùng khổ.

Tập thơ Nhật kí trong tù có nhiều nét báo chí như cách chọn nhân vật, lựa sự kiện, nghệ thuật đưa tin. Trong câu thơ mở đầu, tác giả đã chộp được một sự kiện hết sức kinh ngạc là tên ban trưởng nhà lao đánh bạc! Làm sao trong tù, tác giả nhạy tin tức đến thế? Có gì đâu, tên cai ngục này đánh bạc trong nhà tù, đánh bạc công khai với tù cờ bạc. Người dân đánh bạc ở ngoài thì bị bắt, bị tù; còn con bạc vào tù thì được tha hồ đánh bạc.

Có lần tác giả đã châm biếm: Đánh bạc ở ngoài quan bắt tội Trong tù đánh bạc được công khai Vào tù con bạc ăn năn mãi. Sao trước không vô quách chốn này. Tù nhân cờ bạc có người bị hành hạ, đói rét, chết ngay trong nhà tù (Đêm qua còn ngủ bên tôi, Sáng ra anh đã về nơi suối vàng), thật là thê thảm! Có thể nói, nhà tù là nơi thực thi luật pháp, nhưng nhà tù ở Lai Tân thủ tiêu luật pháp. Ban trưởng nhà lao đã biến nhà tù thành chỗ hắn kiếm chác.

Đánh bạc với tù cờ bạc trong tù là một cách ăn cướp trắng trợn của tên ban trưởng đối với tù nhân. Câu thơ chỉ đưa tin, không bình luận mà có sức tố cáo sâu sắc chế độ nhà tù ở Lai Tân. Ra ngoài nhà tù, tác giả lại tóm ngay được một tên trưởng nữa làm bậy. Lại cũng là một quan chức thi hành pháp luật: Cảnh sát trưởng ở Lai Tân! Cảnh trưởng tham thôn giải phạm tiền. (Giải người cảnh trưởng kiếm ăn quanh) Nạn ăn hối lộ trong xã hội Trung Quốc thời đó đă trầm trọng. Nhà tù lại càng thối nát. Tù nhân vào tù phải nộp tiền! Nếu không có tiền thì mỗi bước anh đi mỗi bước phiền. Muốn có đèn sáng phải có tiền, muốn có nước dùng phải có tiền. Cảnh sát trưởng giải phạm nhân cũng kiếm chác.

Tác giả không còn nén được sự căm giận, đã lộ ra trong mấy tiếng cảnh trưởng tham thôn (cảnh sát trưởng tham lam). Tác giả đã lôi ra hai tên trưởng ở Lai Tân làm bậy, tên thì đánh bạc, tên thì ăn hối lộ. Còn tên huyện trưởng thì làm gì mà có vẻ nghiêm túc. Hình ảnh thơ thật là bí mật, mà cũng thật là hay: Huyện trưởng thiêu đăng biện công sự. (Chong đèn huyện trưởng lo công việc) Trong bản dịch Nhật kí trong tù lần thứ nhất, câu thơ này được dịch là Chong đèn huyện trưởng làm công việc. Từ biện dịch là làm dù chưa hay nhưng vẫn tốt hơn là lo.

Lí giải dần dần, ta sẽ thấy sự bất ổn của từ này. Theo luân lí bình thường, tên ban trưởng làm bậy, tên cảnh trưởng làm bậy, đến tên huyện trưởng tất phải làm bậy. Vậy mà Huyện trưởng thiêu đăng biện công sự. Tên huyện trưởng này làm gì? Nhóm dịch giả Nhật kí trong tù lần thứ nhất không lí giải được, đành hỏi Đại sứ quán Trung Quốc.

Tùy viên Văn hóa Đại sứ quán Trung Quốc nói là quan lại thời đó không làm gì cả, chỉ chong đèn hút thuốc phiện. Thế là từ đó các sách giáo khoa và giáo trình đại học đều giảng là ngục trưởng đánh bạc, cảnh sát trưởng ăn hối lộ, huyện trưởng hút thuốc phiện! Bài thơ Lai Tân lên án thái độ và hành động vô trách nhiệm của nhà cầm quyền ở Lai Tân mà cũng là của xã hội Trung Quốc thời Quốc dân đảng.

Có nhà nghiên cứu vẫn còn hoài nghi. Giáo sư Lê Trí Viễn viết: Bài Lai Tân có một câu không rõ nghĩa ngay ở nguyên văn: Khiêu đăng huyện trưởng biện công sự (dịch: Khiêu đèn, huyện trưởng làm công việc). Hai câu thơ trên nói sự đánh bạc, và hối lộ, còn ở đây anh huyện trưởng làm công việc (việc công chứ không phải là công việc) gì mà phải đốt đèn. Có người nói hắn moi việc để kiếm chác, nhưng như thế cũng là ăn đút. Có ý lại cho rằng: Hay là hắn ta hút thuốc phiện? Không rõ. Chỗ này có lẽ nên nghiên cứu thêm” (Tác phẩm mới, số 8).

Nhóm dịch giả đã viết thư hỏi tác giả. Đại ý câu hỏi là tên huyện trưởng trong bài thơ Lai Tân làm công việc hay hút thuốc phiện. Hồ Chủ tịch đã gạch bỏ ba chữ hút thuốc phiện bằng mực đỏ. Nhận được hồi âm của tác giả, các học giả lại hoang mang. Thế là bí mật của câu thơ vẫn còn nguyên. Theo tôi, không nên hiểu câu thơ này theo lôgíc mà phải hiểu theo nghĩa phi lôgíc (hình thức).

Cứ hiểu là tên huyện trưởng này làm việc công (dịch là công việc cũng không suy suyển với nguyên tác là mấy). Thì hắn đang làm việc công đấy thôi. Hắn làm huyện trựởng Lai Tân mà hai tên quan tai to mắt lớn trưởng và cảnh trưởng làm bậy sờ sờ trước mũi hắn, hắn không thấy.

Loạn đến thế là cùng, thối nát đến thế là cùng. Vậy mà dưới đèn chong, dưới mắt hắn: Lai Tân y cựu thái bình thiên. (Trời đất Lai Tân vẫn thái bình) Bọn quan chức dưới quyền của tên huyện trưởng làm giặc trước công đường, chứ chưa nói đến bọn nha lại dưới xã thôn, vậy mà hắn vẫn tự hào về cái hụyện Lai Tân hắn cai trị là mọi sự đều tốt đẹp, thái bình.

Nụ cười châm biếm của Hồ Chí Minh thật sâu cay! Hãy nghe thêm lời bình của nhà thơ Hoàng Trung Thông về tên huyện trưởng này: “Ở đâu đánh giặc thì cứ đánh, còn cái trời đất Lai Tân này thì vẫn thái bình như muôn thuở. Một chữ thái bình mà xâu táo lại bao nhiêu việc làm trên vốn là chuyện muôn thuở của xã hội Trung Quốc còn giai cấp bóc lột thống trị.

Chỉ một chữ ấy mà xé toang tất cả sự thái bình dối trá nhưng thực sự là đại loạn bên trong”. Xét về mặt cấu trúc, không nên xem ngang bằng ba câu một, hai, ba vì như vậy thì chủ đề bài thơ chỉ là phê phán những thói hư tật xấu của bọn quan lại đương thời ở Lai Tân.

Theo tôi, hai câu đầu là tầng trệt, câu thứ ba đã vút lên thành gác, thành lầu, thành lâu đài thơ. Và như vậy, chủ đề của bài thơ Lai Tân là lên án thái độ và hành động vô trách nhiệm của nhà cầm quyền ở Lai Tân mà cũng là của xã hội Trung Quốc thời Quốc dân đảng. Bài thơ có giá trị khái quát rộng lớn và sâu sắc biết bao.

Bài văn phân tích tác phẩm “Lai tân” của Hồ Chí Minh số 5

Hồ Chí Minh (1890 – 1969) là một tác gia lớn của nền văn học Việt Nam, một nhà thơ tiêu biểu của nền thơ ca cách mạng Việt Nam. Tập thơ “Nhật ký trong tù” của Hồ Chí Minh vừa phản ánh bộ mặt xấu xa tàn bạo của xã hội nhà tù và xa hội Trung Quốc thời Tưởng Giới Thạch vừa khắc họa chân dung của một bậc “đại trí đại nhân đại dũng” là Hồ Chí Minh.

Bài thơ “Lai Tân” là một bài thơ đã khái quát hóa được bộ mặt xã hội Trung Quốc thời Tưởng Giới Thạch. Bài thơ thông qua những cảnh ngược đời của ban trưởng cảnh trưởng huyện trưởng nhà thơ nhằm vạch trần bộ mặt tham lam và vô trách nhiệm của tầng lớp quan lại của xã hội Trung Quốc thời Tưởng Giới Thạch. Bộ mặt xã hội đó được nhà thơ phản ánh vừa cụ thể vừa khái quát, tác giả viết:

“Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc

Giải người cảnh trưởng kiếm ăn quanh

Chong đèn huyện trưởng làm công việc

Trời đất Lai Tân vẫn thái bình.”

Tập thơ “Nhật ký trong tù” (1942 – 1943) gồm có 134 bài trong đó bài “Lai Tân” là bài thứ 97. Bài thơ khái quát hóa bộ mặt thống trị thối nát xấu xa của xã hội Trung Quốc thời Tưởng Giới Thạch. Mở đầu bài thơ nhà thơ giới thiệu hai cành ngược đời của bọn quan lại trong và ngoài nhà tù.

“Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc

Giải người cảnh trưởng kiếm ăn quanh”

Trước hết tác giả đưa ra ánh sáng tên quan lại coi tù ở trong nhà tù đó là ban trưởng.

“Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc”

“Giam phòng ban trưởng thiên thiên đổ”

Câu thơ mở đầu bài thơ “Lai Tân” tác giả đã chộp được một sự kiên hết sức kinh ngạc là ban trưởng nhà lao đánh bạc. Đây là một chuyện lạ bởi vì xã hội Trung Quốc thời bấy giờ đánh bạc là trọng tội. Hồ Chí Minh đã từng viết về chuyện đánh bạc này trong “Nhật ký trong tù” rằng “đánh bạc ở ngoài quan bắt tội”. Hay là tác giả đã viết hẳn một bài thơ có tên “Một người tù cờ bạc vừa chết”.

Người tù cờ bạc vừa chết vì phạm tội đánh bạc bị tra tấn hành hạ dã man “Thân anh da bọc lấy xương, khổ đau đói rét hết phương sống rồi, hôm qua còn ngủ bên tôi, hôm nay anh đã về nơi suối vàng”. Thế mà ban trưởng lại chuyên đánh bạc và dĩ nhiên đánh bạc trong tù chỉ có thể là đánh bạc với đám tù nhân.

Đánh bạc là đã sai, đánh bạc với đám tù nhân lại càng sai nữa. Chưa dừng lại ở đó đã đánh với đám tù nhân thì phần thắng dĩ nhiên thuộc về ban trưởng. Như vậy đó là một hình thức bóc lột tù nhân của ban trưởng. Tên ban trưởng đã phạm hai trọng tội đó là đánh bạc thủ tiêu luật pháp và tham lam vơ vét của tù nhân. Nhìn ra bên ngoài nhà tù thì tác giả lại tóm được một tên có chức trưởng nữa là cảnh trưởng tức cảnh sát trưởng thi hành pháp luật nhưng cũng làm trái với pháp luật.

“Giải người cảnh trưởng kiếm ăn quanh”

“Cảnh trưởng tham thôn giải phạm tiền”

Trong “Nhật ký trong tù” Hồ Chí Minh đã có nhiều bài thơ ghi lại bộ mặt xã hội Trung Quốc thời Tưởng Giới Thạch. Một cách nổi bật của bọn quan lại thời bấy giờ là nạn ăn hối lộ. Chúng đặt ra đủ cách đủ điều để bóc lột người dân bóc lột tù nhân. Hồ Chí Minh đã từng vạch trần rằng “muốn ngủ cho yên giấc, anh phải trả tiền nhiều”, “vào nhà lao phải trả tiền đèn, tiền Quảng Tây vừa đúng sáu nguyên” nếu không thì “mỗi bước anh đi mỗi bước phiền”.

Tên cảnh trưởng này cũng không nằm ngoài bọn quan lại xấu xa đó, Hồ Chí Minh đã vạch trần sự tham lam của tên cảnh trưởng tìm mọi cách để “kiếm ăn quanh” là ăn tiền hối lộ của phạm nhân. Mặc dù tác giả không nói cụ thể việc ăn hối lộ như thế nào nhưng với cụm từ “cảnh trưởng tham thôn” là cảnh sát trưởng tham lam khi giải phạm nhân thì người đọc cũng liên tưởng tên cảnh sát trưởng này sẽ vòi vĩnh để ăn tiền hối lộ của phạm nhân như thế nào. Như vậy cảnh sát trưởng là giải người có tội thì chính hắn lại là người phạm tội, một cảnh ngược đời.

Với hai câu thơ tác giả đã lôi ra hai nhân vật quan lại trong và ngoài tù để chỉ mặt vạch tên, chúng lại là những kẻ thủ tiêu pháp luật chà đạp lên pháp luật. Lôi ra ánh sáng hai tên trưởng trong và ngoài nhà giam nhà thơ đã khái quát hóa cái đại loạn của nhà tù và xã hội Trung Quốc thời Tưởng Giới Thạch.

Sau khi lôi ra đám quan chức làm bậy ở ngoài xã hội, nhà thơ đi đến việc giới thiệu hình ảnh quan chức đứng đầu huyện Lai Tân. Huyện trưởng nhìn qua thì cũng rất nghiêm túc rất trách nhiệm.

“Chong đèn huyện trưởng làm công việc

Trời đất Lai Tân vẫn thái bình”

“Huyện trưởng thiêu đăng biện công sự

Lai Tân y cực thái bình thiên”

Tên huyện trưởng được tác giả giới thiệu là đang làm công việc “biện công sự” và làm rất cần mẫn. Làm cả ngày cả đêm đến lúc phải chong đèn để làm công việc. Thế mà ban trưởng cảnh trưởng làm loạn chà đạp pháp luật rất xấu xa bỉ ổi mà huyện trưởng vẫn không hề biết. Trong con mắt huyện trưởng thì huyện Lai Tân của hắn vẫn “thái bình” như xưa và hắn tự hào về cái thái bình đó. Khi viết hai chữ này tác giả đã làn bật lên một tiếng cười châm biếm sâu cay.

Nhà thơ Hoàng Trung Thông đã bình luận về hai chữ “thái bình” này rất đúng “Ở đâu đánh giặc thì cứ đánh còn đất trời Lai Tân này thì vẫn thái bình như muôn thuở. Một chữ thái bình mà xâu tác lại bao nhiêu việc làm trên vốn là chuyện muôn thuở của xã hội Trung Quốc còn giai cấp bóc lột thống trị. Chỉ một chữ ấy mà xé toan tất cả sự thái bình dối trá nhưng thực sự là đại loạn bên trong.”

Bài thơ “Lai Tân” chỉ đưa ra ba hình ảnh tiêu biểu cho bọn quan lại thời bấy giờ của Trung Quốc như là ban trưởng, cảnh trưởng, huyện trưởng nhưng nhà thơ đã khái quát hóa được cái bộ mặt thối nát của giai cấp thống trị thời Tưởng Giới Thạch là vừa tham lam vừa vô trách nhiệm trước xã hội.

Về mặt nghệ thuật nhà thơ đã diễn giải nội dung theo sự nâng tầng nâng cấp từ chỗ quan nhỏ là ban trưởng đến quan lớn hơn là cảnh trưởng đến quan lớn hơn nữa là huyện trưởng và càng lên cao thì càng hư hỏng thối nát. Chữ “thái bình” ở cuối bài làm vỡ òa ra một tiếng cười châm biếm làm bung phá ra cái bộ mặt xấu xa của tầng lớp quan lại.

Bài văn phân tích tác phẩm “Lai tân” của Hồ Chí Minh số 6

Tháng 8/ 1942, Nguyễn Ái Quốc lên đường sang Trung Quốc tranh thủ sự viện trợ của thế giới cho cách mạng Việt Nam, nhưng đến Quảng Tây- Trung Quốc, Người bị tình nghi là Hán gian, bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam suốt mười ba tháng, bị giải đi hơn mười tám nhà lao của mười ba huyện.

Trong những ngày tháng này, Người đã chứng kiến được hết những bể chìm của sự mục ruỗng ở chính những người được cho là đại diện cho chính quyền. Trong tác phẩm của mình, Người đã nhiều lần phản ánh và đả kích điều này, một trong những bài thơ như thế là “Lai Tân”.

Bài thơ chỉ có vẻn vẹn bốn câu thơ nhưng ba câu thơ đầu ngắn gọn với sự khát quát về ba nhân vật khác nhau đã cho thấy được phần nào một xã hội lúc bấy giờ;

Giam phòng ban trưởng thiên thiên đổ,

Cảnh trưởng tham thôn giải phạm tiền;

Huyện trưởng thiêu đăng biện công sự,

Dịch thơ:

Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc,

Giải người, cảnh trưởng kiếm ăn quanh;

Chong đèn, huyện trưởng làm công việc,

Ba câu thơ ngắn như ba câu tự sự vắn tắt về những hành động thường nhật của những quan quản lí ngục thất đã bộc lộ rất rõ bản chất tệ hại của chúng. Ban trưởng thì là một kẻ cờ bạc đã đến hạng “chuyên” tức là thường thường, ngày ngày không bao giờ dứt ra khỏi chiếu bạc, thử hỏi một trưởng ban như vậy thì còn thì giờ đâu để cai quản ngục thất?

Còn tên cảnh trưởng tuy có “chuyên tâm” vào việc giải phạm nhân nhưng vốn trông vào đó để kiếm lời qua nhận hối lộ, người như vậy không thể đảm bảo được sự công bằng và đem lại không ít khổ cực trong một nơi đã không nhiều vui sướng này. Đến tên huyện trưởng, ngày ngày “chong đèn”, nghe có vẻ như là một người chăm chỉ bận công việc nhưng thực chất đó không phải là ngọn đèn dầu đêm thắp lên vì nhiều việc bận mà là bàn đèn thuốc phiện.

Huyện trưởng chính là một con nghiện, vừa kém sức khỏe, kém trách nhiệm thậm chí sa đọa, không bằng được cả những tù nhân mà mình đang quản lí. Ở nguyên tác, Hồ Chủ Tịch để tên ba nhân vật “đáng khen” này ở ngay đầu câu thơ thậm chí cố ý xếp chức hiệu của chúng từ cao đến thấp như có ý nhấn mạnh vào những tên mang mác quan lại, những tên tuy không phái là quan to chức lớn nhưng cũng mang ý nghĩa đại biểu cho chính quyền ở tại nhà lao lúc bấy giờ.

Vậy mà từ tên có chức vị cao đến tên chức vị thấp đều đáng chê cười. Nếu không phải là ăn chơi, sa đọa thì là hám tiền, vô đạo đức. Bao nhiêu đó thôi đủ để thấy bộ mặt của cả một xã hội, của cả chính quyền lúc bấy giờ, để mà Người phải thốt lên: Lai Tân y cựu thái bình thiên. Dịch thơ:Trời đất Lai Tân vẫn thái bình.

Có những tên quan cai quản như vậy mà trời đất Lai Tân này vẫn thái bình được ư? Rõ ràng Người dùng từ “thái bình” này với ý mỉa mai diễu cợt, ở Lai Tân, chắc chắn một điều là loạn lạc bởi những tên quan phụ mẫu sa đọa, tham lam, vô đạo đức này.

Lúc này, hoàn cảnh Trung Hoa không phải là yên bình, Nhật đang muốn thâu tóm lãnh thổ, bao nhiêu tráng sĩ đổ máu ngoài sa trường mong giữ vững độc lập, tự do cho tổ quốc, đảm bảo ấm no cho nhân dân vậy mà những tên được gọi là “quan” này lại dửng dung như không, thậm chí không làm tròn bổn phận của mình, khiến nhân dân đã cực nay còn cực hơn.

Chỉ với bốn câu thơ nhưng đã bộc lộ sâu sắc tình hình trong nước của Trung Hoa lúc bấy giờ, một sự mục ruỗng thậm tệ của chính quyền phong kiến đáng mỉa mai, đả kích, một xã hội như vậy chỉ có thể loại bỏ nhân dân mới mong có được thái bình. Những câu thơ đọc lên không có gì là dụng công nhưng lại tạo hiệu quả sâu sắc đến thế bởi tài năng của Hồ Chủ Tịch.

Bài văn phân tích tác phẩm “Lai tân” của Hồ Chí Minh số 7

Khi ta nói đến Nhật kí trong tù là ta nói đến tập nhật kí bằng thơ của Bác. Trong tập nhật kí bằng thơ này, ta thấy hiện lên một tinh thần thép của người chiến sĩ cách mạng trước cách tù đày. Ta bắt gặp một con người có một niềm khao khát tự do, khao khát chiến đấu với tinh thần và bản lĩnh của một nhà cách mạng. Ta bắt gặp một tấm lòng nhân đạo bao la với tình thương và lòng bao dung nhân hậu của Người trước mọi đau thương của thể nhân vạn vật, và bên cạnh đó, trong tập nhật kí này ta còn bắt gặp rõ nét cái hiện thực xã hội Trung Hoa dưới thời quân tướng.

Cái xã hội ấy tuy ta còn thấy thấp thoáng cảnh bình yên ả của vùng đất phương Đông. Nhưng trong tập thơ này lại hiện lên hình ảnh một xã hội thối nát và mọt rỗng dưới bàn tay nhơ bẩn của kẻ cầm quyền, nhất là bộ mặt thối nát của nhà tù Trung Quốc. Trong đó bài thơ Lai Tân thể hiện rất rõ nét vấn đề này:

Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc….

Trời đất Lai Tân vẫn thái bình.

Bài thơ tuy ngắn nhưng chứa đựng một dung lượng phản ánh lớn. Trước hết nhà thơ vạch rõ bộ mặt xấu xa, tàn ác, mọt rỗng của nhà tù Trung Quốc dưới thời Tưởng Giới Thạch. Bên cạnh đó bài thơ hiện lên một tiếng cười mỉa mai chua xót cho luật pháp nhà tù ở noi đây. Hai nội dung đó có mối quan hệ mật thiết với nhau và được gắn kết chặt chẽ bằng nghệ thuật trào phúng độc đáo rất Hồ Chí Minh

Trước hết bài thơ Lai tân vạch rõ bộ mặt thật của nhà tù Trung Quốc dưới thời Tưởng Giới Thạch. Như chúng ta đã biết tập Nhật kí trong tù được Hồ Chí Minh sáng tác trong hoàn cảnh bị chính quyền Tưởng Giới thạch bằng một con mắt tinh tế và độc đáo, trong đó có nhà tù Lai Tân:

Giam phòng ban trưởng thiên thiên đố

Cảnh trưởng tham thôn giải phạm tiền

Huyện trưởng thiêu đăng viện ông sự

(Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc

Cảnh trưởng tham lam ăn chặn tiền phạm nhân

Trong đèn ông huyện trưởng bàn công việc).

Ba câu thơ đầu của bài thơ cho ta thấy rõ cảnh tượng của nhà giam Lai Tân. Đây là nơi giam giữ những ngừơi phạm pháp, là nơi mà pháp luật thể hiện uy quyền và hiệu lực nhất. Ấy thế mà cảnh đập vào trước mắt ngừơi đọc là gì? Câu thơ thứ nhất hiện lên hình ảnh ban trưởng nhà lao, con người thực thi của pháp luật nhà tù, cai quản tù nhân, thế mà lại là một người chuyên đánh bạc.

Thật là nực cười cái chính quyền ấy đặt ra luật pháp để bắt tội những con người nhỏ bé trong xã hội ấy thì những kẻ thực thi lại giẫm đạp lên. Cái chính quyền ấy bắt giam những con người khốn cùng còn những kẻ thực thi luật pháp của chính quyền ấy thì tha hồ làm bậy. Cảnh tượng này đã được Bác phản ánh trong nhiều bài thơ khác:

Đánh bạc ở ngoài quan bắt tội

Trong tù đánh bạc đường công khai.

Ở tù con bạc ăn năn mãi

Sao trước không vô quách chốn này.

Như vậy dưới ngòi bút của Hồ Chí Minh, nhà tù Tưởng Giới Thạch không phải là nơi giam giữ và cải tạo tù nhân mà là một sòng bạc với những con bạc đó lại là những người thực thi pháp luật. Những người cờ bạc lén lút ngoài ở ngoài dưới bàn tay giáo dục thì họ có tốt được hay chăng? Tất cả những cái đó đã vẽ lên hình ảnh của nhà tù nơi đây, hình ảnh đó bên ngoài thì nghiêm minh nhưng bên trong thì giả dối, bất công, phi lí. Sang câu thơ thứ hai Hồ Chí Minh tiếp tục cho ta thấy sự thối nát đê tiện của chính quyền nơi này:

Cảnh trưởng tham thôn giải phạm tiền

(Cảnh trưởng tham lam ăn tiền của phạm nhân)

Hành động của cảnh trưởng là hành động của một tên ăn cướp, hành động của một tên trấn lột, ăn chặn bẩn thỉu và tàn nhẫn. Trong Nhật kí trong tù, Hồ Chí Minh nói nhiều về vấn đề này:

Hút thuốc nơi này cấm gắt gao

Thuốc anh nó tước bỏ vào bao

Cái nực cười mỉa mai nhất là hành động này lại diễn ra ở chốn ngục tù, giữa cảnh trưởng và tù nhân. Tù nhân thì làm gì có tiền thế mà chúng cũng chẳng tha. Hành động của cảnh trưởng đã nói hết sự thối nát của nhà tù dưới thời Tưởng Giới Thạch. Cái nhà tù đó quan lại là những tên ăn cướp một cách tàn nhẫn và đê tiện. Trong đèn huyện trưởng bàn công việc.

Như trên chúng ta đã phân tích, ban trưởng thì chuyên đánh bạc, cảnh trưởng thì là kẻ cướp ngày, thế còn huyện trưởng thì sao. Thoạt đầu ta cứ tưởng huyện trưởng là con người của công việc, người đang thâu đêm suốt sáng để bàn công việc. Nhưng ta thử nhìn kĩ lại xem nào? Bàn công việc gì mà lại chỉ có một mình thôi? Hay là ngài đang thao thức điều gì? Không! Hình như ngài đang hút thuốc phiện thì phải? Thế đấy, người to nhất thì lại thờ ơ vô trách nhiệm, ngài đang bận nhưng mà bận hút thuốc. Quả là đáng mỉa mai phỉ nhổ cho bộ máy nhà tù nơi này.

Tóm lại, chỉ qua ba câu thơ Hồ Chí Minh đã khái quát được sự thối nát của bộ máy chính quyền nơi đây. Các bộ máy chính quyền ấy chính là bộ mặt của xã hội Trung hoa dưới thời giặc Tưởng. Cái xã hội ấy toàn những con người ăn cướp, cờ bạc, nghiện hút. Nhưng mỉa mai thay lại là những người đứng đầu bộ máy chính quyền luật pháp. Thật là sự mỉa mai ghê tởm xót xa.

Bên cạnh việc phản ánh bộ mặt xấu xa của nhà tù Trung Quốc dưới thời Tưởng giới thạch thì Hồ Chí Minh đã không quên tung ra những tiếng cười mỉa mai chua cay cái xã hội ghê tởm tàn bạo đó. Ba câu thơ đầu tiếng cười bật ra thật bình thản. Dường như ta chỉ thấy nhà thơ thuật lại cảnh mà mắt thấy tai nghe ở nhà tù Lai tân mà không hề tỏ thái độ gì. Chính cái đó đã tạo nên giá trị mỉa mai chua chát.

Ngay ở chốn lao tù được coi là noi nghiêm minh nhất của pháp luật, thế mà lại diễn ra bao cảnh xâu xa bẩn thỉu. Ban trưởng thì cờ gian bạc bịp, cảnh trưởng là tên vô lại, huyện trưởng là kẻ vô tâm xấu xa hút sách. Tất cả những cảnh đó đã nói lên tình trạng thối nát của bộ máy quan lại thời tưởng giới thạch.

Song câu thơ cuối cùng của bài thơ tiếng cười mỉa mai chua xót lại bật lên giòn giã. Nếu như hai câu thơ trên là ba câu thơ tự sự còn câu kết lại phát biểu cảm tưởng của nhà thơ. Trời đất Lai Tân vẫn thái bình. Có gì mâu thuẫn không khi mà ba câu trên nói về chuyện không bình thường của tình trạng nhà tù nơi đây.

Bọn người thực thi luật pháp lại là những tên vô lại xấu xa. Nhưng tại sao trời đất vẫn thái bình? Vậy thái bình là ở Lai Tân là thái bình gì? Phải chăng đó là hiện tượng thái bình giả tạo? Nhưng kì thực đó là lời mỉa mai chua xót. Hóa ra thái bình ở Lai tân là thái bình mà ban trưởng đánh bạc, cảnh trưởng cứ ăn tiền và huyện trưởng cứ chong đèn mà hút thuốc. Cái xã hội ấy vẫn cứ vận hành đều đều như vậy đấy, rất yên ổn, rất thái bình.

Như vậy, bài thơ bật lên tiếng cười mỉa mai, châm biếm sự thối nát của bộ máy chính quyền đã đến mức trầm trọng, đã trở thành phổ biến, trở thành nếp sống, trở thành bình thường đến nỗi kẻ làm bậy mà thái độ cứ như không vậy. Tiếng cười mỉa mai đó đã bật ra từ nghệ thuật trào phúng độc đáo của Bác. Giọng thơ có vẻ bình thản vô cảm nhưng sự mỉa mai đã kích mạnh mẽ vô cùng.

Bài văn phân tích tác phẩm “Lai tân” của Hồ Chí Minh số 8

Nổi bật nhất về nội dung trong Nhật kí trong tù là hai giá trị. Thứ nhất, qua những trang nhật kí của Bác ta gặp những bức tranh chân thực về chế độ nhà tù Tưởng Giới Thạch. Những hình tượng điển hình này có ý nghĩa khái quát như những bức tranh xã hội. Nội dung thứ hai trong tập Nhật kí trong tù là bức chân dung tự họa thế giới tâm hồn của con người “đại nhân, đại trí, đại dũng”.

Nếu bài “Mộ” tiêu biểu cho nội dung thứ hai thì “Lai Tân” rất tiêu biểu cho nội dung thứ nhất. “Lai Tân” sử dụng nghệ thuật chậm biếm hết sức sắc sảo độc đáo, đạt hiệu quả cao. Nó không dừng lại đả kích một vài tên quan cụ thể mà thông qua những bộ mặt cá nhân này, ta thấy cả bộ mặt xã hội đang ở thời kì mục nát.

Kết cấu bài thơ gồm hai phần rất chặt chẽ. Ba dòng đầu là những câu trần thuật rất khách quan về ba nhân vật “ban trưởng, cảnh trưởng và huyện trưởng”. Phần thứ hai là câu thơ cuối. Nó thay đổi từ giọng trần thuật khách quan sang trữ tình chủ quan. Đó là đánh giá, phát biểu cảm nghĩa của người viết.

Câu thơ thứ nhất tiếp cận một nhân vật mà người tù nhấn ngày nào cũng thấy mặt “Giam phòng ban trưởng thiên thiên đố”. Có nghĩa là “Ban trưởng nhà giam ngày này đến ngày khác đánh bạc”.Rõ ràng đây là sự ghi nhận hiện thực rất khách quan, không hàm ý chê bai, phê phán như trong bản dịch thơ: “Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc”.

Hành động đánh bạc ở bất cứ quốc gia nào, thời kì nào cũng được coi là hành vi xấu. Nước Trung Hoa vào những năm đầu thế kỉ XX coi đây là một hành động phạm pháp. Vì tội này kẻ đánh bạc có thể phải ngồi tù. Lạ lùng thay, kẻ thi hành luật pháp, đang giam giữ những người tù đánh bạc lại là kẻ say mê máu đỏ đen; kẻ hành pháp ngang nhiên phạm pháp. Nhiệm vụ của ban trưởng nhà giam có rất nhiều việc cần phải làm.

Ấy vậy mà, tất cả thời gian có mặt làm công vụ, ban trưởng lại dành cho việc sát phạt bạc tiền với tù nhân. Hai tiếng “thiên thiên” đã khẳng định tính quy luật ngày này dánh bạc, ngày sau đánh bạc, và ngày sau nữa nhiệm vụ của hắn cũng là đánh bạc.

Ở câu thơ thứ hai, lời trần thuật khách quan đã lồng thái độ ghê tởm và phẫn nộ bởi hai tiếng “tham thôn”. Cảnh trưởng gắn bó với bản chất tham lam. Hắn ăn hối lộ, nuốt những miếng to. “Cảnh trưởng tham thôn giải phạm tiền”. Quả là “cảnh trưởng” tham lam nuốt trôi những đồng tiền của phạm nhân được giải đi. Lời dịch thơ đã không tố cáo được bản chất của quan “cảnh trưởng” huyện Lai Tân: “Giải người, cảnh trưởng kiếm ăn quanh”.

Cả hai nhân vật “ban trưởng” và “cảnh trưởng” đều cùng hệ thống- nghĩa là cả hai đêu phụ trách về an ninh của huyện Lai Tân. Cả hai đều giống nhau chữ “trưởng”. Tức là những kẻ có quyền chóp bu. Tuy nhiên, dưới “cảnh trưởng” là “ban trưởng”. Cái khác nhau của hai nhân vật này chính là mối quan hệ trên dưới. Ngài “ban trưởng” dĩ nhiên là thuộc cấp của “cảnh trưởng”.

Hình như có một sự bất thường trong hai câu thơ. Đáng lẽ ra “ban trưởng” thì tham lam, bóc lột tiền của phạm nhân, Còn “cảnh trưởng” thì ngày ngay đánh bạc bởi những đồng tiền do ban trưởng dâng cho. “Ban trưởng” tiểu nhân vô lại thì trắng trọn là đúng. Còn “cảnh trưởng” là tai to mặt lớn, ăn tiền của phạm nhân cần lánh đáo, cần phi tang qua trung gian!

Vậy mà ở đây “cảnh trưởng” lại là người ăn tiền một cách trắng trợn vô liêm sỉ. Người ta tự hỏi “ban trưởng” lấy tiền ở đâu mà ngày ngày cũng có để sát phạt? Trong nguyên văn của bài thơ này Hồ Chí Minh không nói tới mánh khóe của hắn. Nhưng ở những trang nhật kí khác, ta có thể thấy nguồn tiền bẩn thỉu này ở đâu ra.

“Đánh bạc ở ngoài quan bắt tội .

Trong tù đánh bạc được công khai

Bị tù, con bạc ăn năn mãi

Sao trước không vô quách chốn này”.

Hoặc:

Mới đến nhà giam phải nạp tiền

Lệ thường ít nhất năm mươi nguyên

Nếu anh không có tiền đem nạp

Mỗi bước anh đi mỗi bước phiền.

Trớ trêu hơn:

Vào lao phải nộp khoản tiền đèn

Tiền Quảng Tây vừa đúng sáu nguyên.

Thượng cấp của “ban trưởng’’ lạ lùng thay lại không có máu me cờ bạc. Chỉ cần một sự thay đổi phòng giam, thay đổi nơi chốn trại giam thì tù phải cung phụng tiền bạc. Có lẽ để tránh những phòng giam dầy rẫy nhưngcon “đại bàng khát máu” những người tù phải cho cảnh trưởng những đồng tiền nặng túi. Như vậy “ban trưởng” chỉ kiếm tiền nhỏ để mua vui bằng đánh bạc. “Cảnh trưởng” tìm được những món tiền lớn hơn.

Vì vậy hạnh phúc của ngài là được ngắm tiền chứ không phải là dùng tiền để chơi. Xã hội bất thường khi những kẻ cầm quyền làm tiền bất chính trên mồ hôi nước mắt của dân. Xã hội mục rỗng đến tận cùng khi mà kẻ có quyền lực không còn giấu giếm thủ đoạn kiếm tiền. Nó công khai lấy tiền bằng những hành động hèn hạ.

Vẫn theo lối trần thuật khách quan của thể loại “kí”, câu ba cho ta hình tượng về người đứng đầu chính quyền, của huyện Lai Tân. “Huyện trưởng thiếu đàng biện công sự”. Nghĩa là chong đèn, huyện trưởng giải quyết những công việc của chính quyền. Nếu tách hẳn câu thơ này ra khỏi bài thì đây thật là vị quan “chí công vô tư” xứng đáng là “phụ mẫu chi dân” đèn trời soi thấu nhân gian.

Việc công thường được giải quyết trong giờ hành chính. Vậy mà trong đêm, quan cũng không yên giấc lành. Những nỗi đau, những nỗi oan củadân vẫn làm cho quan phụ mẫu phải thao thức. Quan phải giải quyết công việc, cân nhắc mọi lẽ để có tình có lí, đem lợi lộc cho dân đen con đỏ.

Không hề thấy tín hiệu nào cho biết quan đang ở đâu. Có khả năng là ở công đường, cũng có khả năng là ở tư gia và không loại trừ có người nhìn thấy quan bước vào nhà nào đó rồi chong đèn thâu đêm. Nhưng theo giọng điệu của câu thơ thì người viết đãtỏ ra “thật thà”. Dù ở đâu quan “chong đèn” thì ở đó quan cũng lo cho nhân dân.

Có một ngạn ngữ rất nổi tiếng: “Nếu cho tôi biết thuộc cấp của anh là người thế nào, tôi cho biết anh là người thế nào”. Chả lẽ thuộc cấp của “huyện trưởng” là những thằng lưu manh dùng quyền uy để phạm pháp mà “huyện trưởng” lại là người “chính nhân quân tử”? Chắc hẳn “huyện trưởng” phải lưu manh hơn, phải là kẻ phạm tội lớn hơn, phải là kẻ lợi dụng chức quyền để làm những chuyện tày trời hơn!

Chúng ta biết rằng vùng đất Quảng Tây những năm 40 thế kỉ XX là nơi sản xuất, mua bán rất nhiều thuốc phiện. Thói quen của những kẻ nhiều bạc lắm tiền ở đây là hút thuốc phiện. Ngọn đèn dầu lạc luôn luôn đồng nghĩa với những cuộc làm bạn với “nàng tiên nâu”. Ba nhân vật cao nhất của chính quyền huyện Lai Tân là ba con người phạm tội. Mỉa mai hơn là chúng dùng quyền lực để công khai phạm pháp. Cả ba chỉ lo cho chính mình. Cả ba sinh ra để làm hại dân, bóc lột dân. Chính quyền thối nát đến như vậy mà câu thơ thứ tư lại là một nhận xét “mát mẻ, nhẹ nhàng”.

“Lai Tân y cựu thái bình thiên” Nghĩa là ngày nào Lai Tân cũng thái bình như xưa. Vậy là Lai Tân rất thái bình, dân tình rất yên ổn, quan lại cũng yên ổn chỗ ngồi. Ngàyhôm nay người dân Lai Tân vẫn sống không khác ngày xưa. Quan lại vẫn ngồi trên đầu trên cổ của nhân dân.

Chính quyền Lai Tân, bây giờ là Trung Hoa dân quốc. Chính thể dân chủ tự hào đã tiêu diệt được chế độ quân chủ. Chế độ hôm nay ắt hẳn hơn chế độ xưa. Ấy mà, Hồ Chí Minh lại so sánh ngày thái bình hôm nay như ngày thái bình xưa kia. Dân chủ hay quân chủ thì cũng là “y cựu” cả thôi!

Câu thơ cuối cùng chứa đựng phong cách châm biếm của Nguyễn Ái Quốc ở Pháp giờ thể hiện ở Hồ Chí Minh trên đất Trung Quốc. Lời nói có vẻ dửng dưng nhẹ nhàng nhưng mang sức mạnh chiến đấu. Thái độ đả kích là rất quyết liệt, rất mạnh mẽ!

Mở đầu cuốn Truyện Kiều bất hủ của mình, đại thi hào Nguyễn Du viết:

Rằng năm Gia Tĩnh, triều Minh

Bốn phương phẳng lặng, hai kinh vững vàng.

Ấy vậy mà có một địa ngục trần gian ở trong tác phẩm. “Trời đất Lai Tân vẫn thái bình”, vậy mà:

Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc

Giải người, cảnh trưởng kiếm ăn quanh

Chong đèn huyện trưởng làm công việc.

Trên đây là Tổng hợp các bài văn nghị luận về tác phẩm Lai Tân – Hồ Chí Minh do dean2020.edu.vn đã tổng hợp và chia sẻ đến các bạn. Hi vọng các bạn sẽ chọn cho mình một bài văn nghị luận thích hợp để phân tích tác phẩm Lai Tân – Hồ Chí Minh hay nhé! Chúc các bạn học tốt!

Related Posts

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *