Tác phẩm “Đời thừa” thể hiện tấn bi kịch tinh thần của người trí thức tiểu tư sản, từ chính sự áp lực về cơm áo gạo tiền. Đó là những số phận con người bị đẩy vào tấn bi kịch của người nghệ sĩ nhẫn tâm chà đạp lên sự sáng tạo nghệ thuật chân chính, bi kịch của một người cha, người chồng phải chà đạp lên nguyên tắc tình thương do chính mình đề ra. Qua bi kịch của nhà văn Hộ, Nam Cao cho ta thấy được một tư tưởng nhân văn tố cáo hiện thực, sự tha hóa nhân cách và cùng là sự đồng cảm với những con người bất hạnh. Mời các bạn tham khảo một số bài văn phân tích tác phẩm Đời Thừa – Nam Cao mà chúng tôi đã tổng hợp trong bài viết dưới đây.
Bài văn phân tích tác phẩm “Đời thừa” số 1
Nếu kể tên đến những nhà văn hiện thực xuất sắc của văn học Việt Nam ngoài những cái tên như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng… thì Nam Cao là cái tên mà nhiều người trong chúng ta nghĩ đến. Những tác phẩm của ông đã để lại nhiều ấn tượng và suy ngẫm trong lòng người đọc. Đặc biệt là những tác phẩm trước cách mạng tháng Tám. Bên cạnh những tác phẩm nói về đề tài người nông dân thì Nam Cao còn rất thành công với đề tài người trí thức mà tiêu biểu cho chủ đề này là tác phẩm Đời Thừa.
Trước tiên chúng ta hãy tìm hiểu về nhan đề của tác phẩm này. Như chúng ta đã biết thì tác phầm giống như một đứa con tinh thần của mỗi nhà văn nhà thơ. Chính vì thế mà việc đặt tên cho những đứa con ấy rất quan trọng. Nó không chỉ mang đến sự chú ý của độc giả mà còn là ý đồ nghệ thuật của nhà văn nhằm thể hiện tư tưởng nội dung tác phẩm. Ở tác phẩm này cũng vậy, sở dĩ nhà văn lấy tên nhan đề tác phẩm là đời thừa nhằm nói lên cuộc sống bế tắc của những người tri thức trong cái xã hội trước. Nếu như người nông dân bế tắc bị lưu manh tha hóa thì người tri thức cũng rơi vào bế tắc với những bi kịch về văn học nghệ thuật và tình thương.
Cái xã hội ấy không tạo điều kiện cho những người tri thức cũng như những tác phẩm văn học của họ phát triển vì gắng nặng cơm áo gạo tiền. Trong cuộc sống người ta chỉ thừa cái quần cái áo, thừa bát cơm đấu gạo. Thế mà ở đây nhân vật Hộ lại thừa đời. Có thể nói anh tư thấy bản thân mình thừa ra để vô vị, vô nghĩa trước cuộc đời, thừa ra với người thân thừa ra với chính bản thân mình. Đồng thời qua tác phẩm này ta sẽ thấy được những quan niệm sáng tác văn học của nhà văn hiện thực Nam Cao.
Cuộc đời nhân vật Hộ được phân tích dựa trên hai bi kịch lớn. đó là bi kịch nghệ thuật của nhà văn và bi kịch tình thương của anh với gia đình mình.Trước hết là bi kịch nghệ thuật, quan điểm của Hộ trước khi gặp Từ, đó là cái thời hoài bão của anh còn rất lớn. Đối với người nghệ sĩ như anh thì đói rét không có nghĩa lý gì với một gã trẻ tuổi say mê lí tưởng. Lòng hắn đẹp tâm hồn hắn trong sáng. Không những thế đầu hắn mang một hoài bão lớn đó là “ Cả đời tôi chỉ viết một tác phẩm nhưng tác phẩm ấy sẽ làm lu mờ hết tất cả những tác phẩm ra cùng thời, tác phẩm ấy phải được ăn giải Nô- Ben và phải dịch ra mọi thứ tiếng trên toàn cầu”.
Qua những tâm tư của người tri thức ấy ta thấy được một con người đam mê nghệ thuật đến mức quên đi những vụn vặt như chuyện cơm ăn áo mặc thường ngày. Anh luôn ý thức tự giác về nghề nghiệp của mình, ta thấy đây chính là một người nghệ sĩ chân chính. Số ít trong những quan niệm sáng tác của Hộ là “ Văn học không cần đến nhưng người thợ khéo tay làm theo một vài khuôn mẫu có sẵn, mà văn học chỉ dung nạp những người nghệ sĩ biết khơi những gì chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có” hay “ Sự cẩu thả trong bất cứ nghề gì cũng là bất lương riêng sự cẩu thả trong văn chương là đê tiện”. Qua đây ta có thể khẳng định Hộ là một nhà văn tài năng có nhân cách, có quan niệm đẹp đẽ.
Khi ghép cuộc đời mình vào cuộc đời của Từ thì bi kịch nghệ thuật bắt đầu diễn ra với người nghệ sĩ này. Bây giờ Hộ không còn có một mình nữa Hộ có cả một gia đình để lo toan với những gồng gánh bận rộn tẹp nhẹp. Vợ thì đói rách con cái thì mai ôm nay đau, đứa nào cũng nhiều đẹn nhiều sài, quấy rức suốt cả ngày. Hộ phải kiếm tiền nuôi gia đình bằng cách viết văn và viết thật nhiều. Chính vì thế mà anh không thể nào đợi viết một tác phẩm cả đời được. Có những bài văn anh đọc rồi lại quên luôn, nhưng vì gia đình anh phải đi trái với quan niệm với lương tâm nghề nghiệp của mình. Anh đau khổ nhưng biết làm sao khi cả nhà trông chờ vào đồng lương ít ỏi của anh. Hộ tự thấy xấu hổ mỗi khi đọc lại chính bài viết của mình. Hộ chửi bản thân là một thằng đê tiện, khốn nạn và bất lương. Hộ vỡ mộng và rơi vào bi kịch.
Như vậy ta thấy bi kịch của Hộ không phải là bi kịch của riêng ai mà là cả bi kịch của xã hội thời bấy giờ. Ở đó giá trị con người cuộc sống và tài năng trở nên vô nghĩa. Bị kịch của Hộ chính là sự đối nghịch giữa hoàn cảnh và phẩm giá làm người. Không chỉ chịu bi kịch của một người nghệ sĩ không được phát triển tài năng của mình mà Hộ còn phải chịu bi kịch của tình thương.
Trước khi xảy ra bi kịch thì Hộ coi tình thương là tiêu chuẩn hàng đầu để xác định nhân cách con người, kẻ mạnh là kẻ biết giúp đỡ người khác. Từ là một cô gái bị tình nhân bỏ rơi, tên tình nhân ấy không những mang đến cho cô đau khổ mà hắn con ra đi mà đẻ lại cốt nhục của mình không thương tiếc không chịu trách nhiệm với cuộc đời của Từ. Thế rồi Từ mang thai đứa con ấy, mẹ già thì mù lòa, và khi ấy chính Hộ đã cúi xuống cứu vớt cuộc đời Từ. Anh chấp nhận nuôi mẹ già và làm cha đứa trẻ trong bụng của Từ. từ đó cho thấy Hộ là một nhà văn giàu tình thương và lòng nhân ái. Và chính vì tình thương mà Hộ chấp nhận bỏ đi hoài bão lớn lao của mình để kiếm tiên nuôi gia đình. Hộ chấp nhận viết những tác phẩm giống như “thứ hồ quấy loãng” và chấp nhận là một kẻ đê tiện để có tiền nuôi gia đình. Tuy nhiên trong sâu thẳm anh vẫn dằn vặt khôn nguôi trước hoài bão của mình.
Thế nhưng khi nhận ra mình chỉ là kẻ bất lương, là một kẻ đê tiện thì Hộ lại trà đạp lên chính tình thương mà mình gây dựng và quan điểm sống của mình. Anh bắt đầu chán nản và tim đến rượu bia. Anh đánh vợ chửi con và trở thành một người chồng vũ phu. Tuy vậy anh luôn sống khổ sở bởi anh không quên được nghệ thuật. Trong Hộ có hai con người dằn xé lẫn nhau: Một là con người của văn chương nghệ thuật, một là con người của cuộc sống đời thường, một sự hi vọng, một sự đau khô u uất. Tưởng rằng tìm đến rượu sẽ làm vơi bớt nỗi đau nhưng ai ngờ chính con ma men lại càng làm nâng lên nỗi đau khổ trong lòng Hộ. Nó biến Hộ thành một kẻ vũ phu và tiếp tục rơi vào bi kịch lần nữa. Mỗi lần tỉnh dậy anh lại càng thấm thía bi kịch của bản thân mình, anh hối hận vì đối sử thô bạo với người thân, anh chửi vả mình và tự cho mình là một thằng khốn nạn.
Như vậy qua đây ta thấy được một tấn bi kịch lớn của người tri thức đương thời. Anh Hộ là một trong những cuộc đời điển hình của những người tri thức. Biết rằng hoài bão lớn lao kia nó luôn ở trong tim nhưng ở xã hội ấy thì nó chỉ làm khổ cho chính người đang mơ ước đến nó mà thôi. Một lần nữa giá trị hiện thực lại được thể hiện ở đây
Bài văn phân tích tác phẩm “Đời thừa” số 2
Truyện ngắn Đời thừa viết năm 1943. Có thể xem Đời thừa, về mặt chủ đề, góp phần chuẩn bị trực tiếp cho tiểu thuyết Sống mòn của nhà văn hoàn thành vào năm sau đó, năm 1944. Không phải ngẫu nhiên mà cả hai tác phẩm đều có tính chất tự truyện và nhan đề đều bộc lộ một tâm trạng, một tư tưởng sáng tạo gần gũi nhau.
Đời thừa viết về cuộc sống của một trí thức nghèo, một nhà văn. Hộ là một con người trung thực, thương yêu vợ con, rất có trách nhiệm đối với gia đình, là một người cầm bút có suy nghĩ đúng đắn, nghiêm túc về nghề pghiệp, có hoài bão xây dựng được mội tác phẩm thật có giá trị “sẽ làm mờ hết các tác phẩm cùng ra một thời”, thậm chí có thể được trao giải Nobel. Nhưng trong thực tế, Hộ phải chịu bao nhiêu cảnh buồn lo, cực nhục trong cuộc sống. Hộ phải làm quần quật nhưng vẫn không kiếm đủ tiền để nuôi sống gia đình, chạy chữa thuốc men cho một bầy con nhỏ quặt quẹo, ốm luôn. Là một người đàn ông, một người chồng, một người cha có tinh thần tự trọng, Hộ rất khổ tâm trước cảnh nhà túng thiếu, nhất là nhìn thấy Từ, vợ mình, người đàn bà đã chịu nhiều đau khổ với người tình cũ, đến với mình đầy ân nghĩa, lại phải chịu đựng, lầm lũi, vất vả quá. Lúng túng, khổ tâm vì chuyện gia đình.
Hộ không mấy khi được ngồi viết văn một cách thanh thản, thực hiện được những điều mình ưa thích, mong muốn. Và bất chấp động cơ, ý nghĩa tốt đẹp, Hộ phải viết một cách cẩu thả, bôi bác, đế kiếm tiền, tạo ra những sản phẩm mà mỗi lần đọc lại “hắn lại đỏ mặt lên, cau mày, nghiến răng, vò nát sách mà mắng mình như một thằng khốn nạn”. Những sự dằn vặt trong gia đình vì nghèo, vì cảnh vợ con nheo nhóc, thêm sự bất mãn, sự xấu hổ trong việc viết văn mà Hộ thiết tha và đặt bao nhiêu hi vọng, càng ngày càng biến Hộ thành một người bẩn tính, thô bạo, bất cần. Hộ mắng chửi vợ con, say rượu liên miên. Nhưng mỗi khi tỉnh lại, Hộ lại buồn bã, hối hận, càng thương vợ thương con và tự trách mình.
Qua tác phẩm của Nam Cao, ta thấy những người tốt, những người có mơ ước hoài bão, những người lao động trung thực, cần cù, sao mà khổ quá, khổ cả về vật chất và tinh thần! Trong hoàn cảnh như vậy, những người như Từ chỉ biết chịu đựng, nhẫn nhục, và càng hiểu chồng, thương chồng. Nhưng Hộ là một nhà văn, Hộ càng thấy hoàn cảnh sống thật là nặng nề, không lối thoát, một bi kịch thật sự. Hộ có lúc nói ra miệng là vợ con làm khổ mình, nhưng trong thâm tâm anh biết không phải như vậy. Chẳng biết trách ai, anh tự trách mình, xỉ vả mình, gặm nhấm một mình nỗi bất bình và đau khổ.
Nhân vật chính trong tác phẩm là nhà văn. Cho nên trong tác phẩm, thông qua cuộc sống và nhất là suy nghĩ của nhân vật Nam Cao đã đề cặp trực tiếp đến một vấn đề mà ông thường xuyên quan tâm, đó là vấn đề sáng tạo nghệ thuật, quan niệm và yêu cầu của ông về văn chương. Hộ rất thiết tha với nghề văn. Sáng tạo văn chương là khát vọng, là lí tưởng của đời Hộ. Lúc đầu, Hộ coi khinh những lo lắng tùn mùn về vật chất, dồn hết tâm sức vun trồng cho cái tài mỗi ngày một thêm nảy nở. Hộ đọc, ngẫm nghĩ, tìm tòi, nhận xét và suy tưởng không biết chán. Hộ biết đi vào nghề văn sẽ nghèo, sẽ khổ, nhưng Hộ chấp nhận. Văn chương cũng mang lại cho Hộ niềm vui không gì sánh được. Mỗi lần Hộ tâm sự với vợ nhân đọc được một đoạn văn hay:
« … Này, Từ ạ… Nghĩ cho kỉ, đời tôi không đáng khổ mà hóa khổ, chính tôi làm cái thân tôi khổ, tôi mê văn quá nên mới khổ. Ấy thế, mà tuy khổ thật, nhưng thử có người giàu bạc vạn nào thuận đổi lấy cái địa vị của tôi, chưa chắc tôi đã đổi. Tôi cho rằng: những khi được đọc một đoạn văn như đoạn này, mà lại hiểu được tất cả cái hay thì dẫu ăn một món ngon đến đâu cũng không thích bằng. Sướng lắm! Sao thiên hạ lại có người tài đến thế?”
Theo Hộ, một tác phẩm thật có giá trị, tác phẩm Hộ mong viết được trong cả một đời văn của mình, không thể chỉ có giá trị địa phương thôi, không chỉ tả được cái bề ngoài của xã hội, mà “Phải vượt lên trên tất cả các bờ cõi và giới hạn, phải là một tác phẩm chung cho cả loài người. Nó phải chứa đựng được một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau dớn lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tính bác ái, sự công bình. Nó làm cho người gần người hơn”Chắc chắn đó cũng là mong ước, là yêu cầu của Nam Cao về một tác phẩm hay, về văn chương. Văn chương không chỉ là nghề mà còn là nghiệp, một sự ràng buộc, một nhu cầu nội tại văn chương, về phương diện sáng tác cũng như thưởng thức, là nỗi đau mà cũng là niềm vui, là hạnh phúc, tự nguyện của từng người. Văn chương là lĩnh vực của tài năng, của sự liên tài. Tác dụng cao quý của văn chương là nhân đạo hóa xã hội và cuộc sống, làm cho con người cảm thông với nhau, gần gũi nhau.
Nam Cao phê phán nghiêm khắc bệnh cẩu thả trong văn chương xem những người viết văn cẩu thả là những tên bất lương. Ông viết: “Sự cẩu thả trong bất cứ nghề gì cũng là một sự bất lương rồi. Nhưng sự cẩu thả trong văn chương thì thật là đê tiện”. Nam Cao cũng khẳng định rất rõ ràng viết văn, làm nghệ thuật là tìm tòi phát hiện, sáng tạo: không ngừng, mang đến cho người đọc một cái gì lạ, một cái gì mới, một cái gì độc đáo, mà điều này thì chỉ có tài năng và công phu mới làm được. Nam Cao viết: “Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp được những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những cái gì chưa có”!
Đó là quan niệm rất chính xác, một yêu cầu rất cao về văn chương. Nhà văn, nghệ sĩ tất nhiên phải biết “hành nghề”, phải am hiểu về kĩ thuật, phải “khéo tay” ở một mức độ nhất định, nhất là trong một số ngành nghệ thuật nào đó, chẳng hạn như điêu khắc, biểu diễn âm nhạc v.v… Nhưng nhà văn, nghệ sĩ, về bản chất hoạt động mà nói, không phải là người thợ, cho dù là thợ khéo tay, làm theo những kiểu mẫu có sẵn, theo “đơn đặt hàng” của người khác. Văn chương nghệ thuật là hoạt động tinh thần, là “Thôi thúc bên trong” là tình cảm, tư tưởng không nén nổi của người nghệ sĩ cất lên thành lời, thành nhạc, thành tranh… Chỉ có thứ văn chương “gan ruột”, không viết ra không được đó mới rung động được tâm hồn người khác, mới có giá trị.
Hơn nữa, trong lĩnh vực văn chương, chỉ có thật, chân thành, chưa đủ, mà còn phải sâu sắc, phải mới, “khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có”. Không sâu sắc, không phát hiện và tạo được cái mới, không có được một cách nhìn mới, tiếng nói mới, thì cũng không thể nào có được một chỗ đứng thật sự trong thế giới nghệ thuật. Theo Nam Cao những nguời cầm bút chì viết được những cái vô vị, nhạt nhẽo, gợi những tình cảm nông cạn, “diễn một vài ý rất thông thường quấy loãng trong một thứ văn bằng phẳng và quá ư dễ dãi”, chẳng đem một chút mới lạ gì đến văn chương, là những kẻ vô ích, những người thừa.
Trong tác phẩm, Nam Cao đã dùng các khái niệm người thừa, đời thừa theo một nghĩa xác đinh. Thừa là không có ích, không cần thiết cho con người, xã hội. Chỉ có những con người trung thực, những người có suy nghĩ đúng và có yêu cầu về giá trị của con người trong cuộc sống, về sự sáng tạo đích thực, mới biết thế nào là thừa, mới dám nhận và xót xa về tình trạng thừa của mình. Người thừa, đời thừa là một nhận thức, một tiếng kêu về sự vô vị, bế tắc trong cuộc sống. Chủ đề này Nam Cao đã nêu ra dưới dạng này, dạng khác trong nhiều truyện ngắn của mình, đặc biệt là sau này đã khai thác một cách rộng hơn, sâu hơn trong tiểu thuyết Sống mòn.
Những nhân vật của Nam Cao, đặc biệt là những nhân vật trí thức, thường sống nhiều với nội tâm. Để trình bày đời sống bên trong của nhân vật, có khi tác giả trực tiếp dùng biện pháp miêu tả tâm lí, nhưng lại hay để cho nhân vật tự bộc lộ, tự nói với mình, “độc thoại bên trong”. Trong Đời thừa, Nam Cao cũng kết hợp hai biện pháp: miêu tả những hành động cử chỉ của nhân vật, quan hệ, lời ăn tiếng nói của nhân vật, đồng thời để nhân vật tự bộc lộ, tự nói với mình (độc thoại bên trong). Chính do vậy mà tác phẩm mang nhiều tính chất trữ tình, nhiều đoạn văn thật sự làm xúc động người đọc, vì những sụy nghĩ chân thành, vì những nỗi đau của nhân vật và của chính tác giả. Ở chiều sâu của Đời thừa, có một chất thơ từ niềm khát khao cái đẹp, khát khao một cuộc sống trong đó con người biết thương yêu nhau và có thể sống một cách xứng đáng, có ý nghĩa. Nam Cao hay nói đến Tsêkhốp, mong viết được như Tsêkhốp. Ở Nam Cao, cũng có chất thơ, chất trữ tình, có nỗi buồn, tình yêu thương xót xa đối với con người như ở Tsêkhốp. Và, cũng như Tsêkhốp Nam Cao cảm nhận sâu xa ý nghĩa và bi kịch của cuộc đời trong những cái tư tưởng chừng nhỏ nhặt, vô nghĩa hằng ngày ở xung quanh.
Những cảnh bực bội, thương tâm trong gia đình mà Hộ và Từ đã trải qua, lòng tự tin đến ngông nghênh và sự chán chường, những ý nghĩ cao quý và tầm thường luôn giằng xé tâm trí Hộ trong khi cầm bút, cũng là chuyện thường tình, không có gì đáng nói, nhưng qua tài năng và tâm hồn của Nam Cao đã trở thành nỗi đau, bi kịch của con người, của cuộc sống, nỗi đau và bi kịch của con người thừa, của đời thừa. Tác phẩm của Nam Cao luôn luôn khiến người ta chú ý hơn, nhìn sâu hơn vài cái bình thường, cái hằng ngày ở xung quanh và ở chính mình, sống có ý thức hơn, nhân ái hơn, kéo con người ra khỏi tình trạng nhỏ nhen, lố bịch, độc ác, tự bằng lòng một cách vô lối, tức là làm cho người ta “bất an” như một nhà văn có tên tuổi đã nói về chức năng của văn chương.
Đời thừa có một kết cấu rất tự nhiên. Thực chất đây là một loại truyện không có cốt chuyện. Sự việc hầu như không có gì. Nhà văn có nói qua về quá khứ bất hạnh của Từ, về quá trình Hộ và Từ quen biết nhau và nên vợ nên chồng, về một buổi gặp gỡ giữa Hộ và các bạn làng văn, nhưng tập trung chủ yếu vào suy nghĩ và nỗi khổ tâm củ Hộ vì không được thực hiện nguyện vọng thiết tha của đời mình là viết văn, hoàn thành những tác phẩm thật có giá trị như mình mong ước và tin rằng có khả năng làm được. Lẽ ra phải dồn hết tâm lực cho văn chương, cống hiến cho sự nghiệp cao quý đã lựa chọn tất cả những gì tốt đẹp nhất của mình, thì Hộ lại tất tưởi lo kiếm sống, luôn luôn bị quấy rầy bởi cảnh gia đình nheo nhóc, túng quấn, do đó mà con người cũng trở nên thô bỉ, hèn kém, mộng tưởng ban đầu cũng tàn lụi dần. Tâm trạng của Hộ bị giằng xé một bên là khát khao sáng tạo, vươn tới những đỉnh cao trong văn chương và, bên kia, là những đòi hỏi thực dụng, cấp bách của cuộc sống gia đình vất vả, thiếu thốn hàng ngày. Đặc sắc và chiều sâu của tác phẩm là ở sự giằng xé trong tâm trạng của Hộ, ở chất lượng những suy nghĩ của nhân vật chính phát ngôn cho tác giả về cuộc đời, về sáng tạo văn chương.
Có thể nói nhân vật trong Đợi thừa là một nhân vật – tâm trạng. Chất thơ, chất trữ tình bàng bạc khắp tác phẩm do đấy mà ra. Chiều sâu và sự mới mẻ của chủ đề, chất lượng suy nghĩ, chất thơ và chất trữ tình đã tạo nên sức hấp dẫn đặc biệt cho Đời thừa, cũng như cho nhiều tác phẩm khác của Nam Cao có cấu tạo một cách rất tự nhiên, khiến cho người đọc có thể trở lại nhiều lần với truyện ngắn của ông, dừng lại trên từng ý, từng câu văn ông viết ra.
Bài văn phân tích tác phẩm “Đời thừa” số 3
Nam Cao là một nhà văn lớn của Việt Nam. Những tác phẩm của ông đem lại những giá trị lớn cho kho tàng văn chương Việt Nam. Tác phẩm truyện ngắn “Đời thừa” mà ông viết vào năm 1943 là một tác phẩm tiêu biểu cho phong cách văn chương của ông.
Tác phẩm đã thể hiện rõ hình ảnh của những trí thức nghèo. Với những hoài bão lớn lao đã bị nhấn chìm bởi chính cái nghèo đeo bám. Hôm nay chúng ta hãy cùng nhau phân tích tác phẩm truyện ngắn “Đời thừa” của Nam Cao. Phân tích tác phẩm truyện ngắn “Đời thừa” của Nam CaoTác phẩm “Đời thừa” nói về cuộc sống của một nhà văn, một trí thức nghèo. Nhà văn đó là một người có trách nhiệm với ra đình. Yêu vợ thương con và là một con người trung thực. Anh luôn ấp ủ trong mình những hoài bão lớn. Và thực sự nghiêm túc về công việc văn chương của mình. Anh có mong muốn viết nên một tác phẩm để đời. Một tác phẩm có thể làm lu mờ những tác phẩm khác cùng thời, và tác phẩm đó sẽ đoạt giải Nobel.
Nhưng một cái thực tế thực sự phũ phàng. Cuộc sống này dường như đã nhấn chìm giấc mơ ấp ủ của anh. Một cảnh đời với bao buồn lo suy nghĩ về cuộc sống. Làm quần quật suốt ngày để kiếm tiền, nhưng vẫn không đủ tiền để nuôi gia đình. Không có tiền để chạy chữa cho đàn con lúc ốm đau bệnh tật. Một hình ảnh người đàn ông, một người chồng, một người cha có lòng tự trọng rất cao. Nhân vật Hộ, được xây dựng nên thực sự là một người đàn ông mẫu mực trong cái xã hội đó. Anh rất khổ tâm trước cảnh cơ cực của gia đình, buồn rầu trước cảnh nhà túng thiếu. Và anh cũng thực sự buồn rầu khi vợ mình là Từ. Một người phụ nữ đau khổ với người tình cũ đã đến bên anh nhưng lại phải cùng anh chịu đựng sự cực khổ, vất vả lầm lũi.
Cuộc sống khổ cực, túng thiếu khiến cho Hộ không thể nào có thời gian viết lách văn chương một cách thanh thản. Và chính vì thế, Hộ viết nhanh, viết cẩu thả. Những tác phẩm văn của anh không được chỉnh chu, thậm chí là người ta đọc xong đã quên luôn. Hộ cảm thấy xấu hổ với chính bản thân mình. Cảm thấy thực sự tủi nhục vì nghĩ đến những hoài bão lớn lao của mình trước đây.
Có thể nói rằng trong hoàn cảnh như vậy, những người như Từ chỉ biết chịu đựng, nhẫn nhục, và càng hiểu chồng, thương chồng. Nhưng dường như ở Hộ là một nhà văn. Hộ như đã càng thấy hoàn cảnh sống thật là nặng nề, như không có lối thoát, một bi kịch thật sự. Văn sĩ Hộ có lúc nói ra miệng là vợ con làm khổ mình, nhưng trong thâm tâm anh biết không phải như vậy. Có lẽ chẳng biết trách ai, anh tự trách mình, xỉ vả mình. Gặm nhấm một mình nỗi bất bình và đau khổ.
Nhân vật chính trong tác phẩm là nhà văn. Chính vì vậy cho nên, tác phẩm đã thông qua cuộc sống và nhất là suy nghĩ của nhân vật Nam Cao. Như cũng đã đề cặp trực tiếp đến một vấn đề mà ông thường xuyên quan tâm. Đó chính là vấn đề sáng tạo nghệ thuật, quan niệm và yêu cầu của ông về văn chương. Hộ rất thiết tha với nghề văn. Sáng tạo văn chương là khát vọng, là lí tưởng của đời Hộ. Lúc đầu, Hộ coi khinh những lo lắng tùn mùn về vật chất. Dồn hết tâm sức vun trồng cho cái tài mỗi ngày một thêm nảy nở. Hộ đọc, ngẫm nghĩ, tìm tòi, nhận xét và suy tưởng không biết chán. Hộ biết đi vào nghề văn sẽ nghèo, sẽ khổ, nhưng Hộ chấp nhận. Và chính với văn chương cũng mang lại cho Hộ niềm vui không gì sánh được. Mỗi lần Hộ tâm sự với vợ nhân đọc được một đoạn văn hay cả.
Và để rồi khi Hộ đã phải viết cẩu thả cho nhanh những tác phẩm không ra sao để có thể có thêm tiền lo cho cuộc sống. Chính cái nghèo đói đã là Hộ trở thành một “kẻ đê tiện” trong văn chương. Và đây cũng chính là quan niệm của nhà văn Nam Cao gửi gắm vào đó. Người đọc như cũng đã chắc chắn đó cũng là mong ước. Là yêu cầu của Nam Cao về một tác phẩm hay, về văn chương. Văn chương đối với Hộ hay chính là nhà văn Nam Cao không chỉ là nghề mà còn là nghiệp. Một sự ràng buộc, một nhu cầu nội tại văn chương. Và cả về phương diện sáng tác cũng như thưởng thức. Là nỗi đau mà cũng là niềm vui, là hạnh phúc, tự nguyện của từng người.
Văn chương dường như đã được xem là lĩnh vực của tài năng, của sự liên tài. Ta như đã có thể thấy tác dụng cao quý của văn chương là nhân đạo hóa xã hội và cuộc sống ngày nay. Làm cho con người cảm thông với nhau, gần gũi nhau. Nhà văn Nam Cao dường như cũng đã phê phán nghiêm khắc bệnh cẩu thả trong văn chương. Xem những người viết văn cẩu thả là những tên bất lương. Ông viết: “Sự cẩu thả trong bất cứ nghề gì cũng là một sự bất lương rồi. Nhưng sự cẩu thả trong văn chương thì thật là đê tiện”.
Nam Cao cũng đã khẳng định quyết liệt và rất rõ ràng viết văn. Làm nghệ thuật là tìm tòi phát hiện, sáng tạo, và đặc biệt là phải không ngừng mang đến cho người đọc một cái gì lạ. Và đó chính là một cái gì mới, một cái gì độc đáo, mà điều này thì chỉ có tài năng và công phu mới làm được. Nam Cao viết rằng “Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp được những người biết đào sâu. Biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những cái gì chưa có”!
Có thể nói rang đó là quan niệm rất chính xác, một yêu cầu rất cao về văn chương. Là nhà văn là nhà nghệ sĩ tất nhiên phải biết “hành nghề” thì tất nhiên phải am hiểu về kĩ thuật. Phải “khéo tay” ở một mức độ nhất định, nhất là trong một số ngành nghệ thuật nào đó. Chẳng hạn như điêu khắc, biểu diễn âm nhạc rồi,… Nhưng dường như đối với các nhà văn, nghệ sĩ, về bản chất hoạt động mà nói.
Không phải là người thợ, cho dù là thợ khéo tay, làm theo những kiểu mẫu có sẵn. Làm theo “đơn đặt hàng” của người khác. Văn chương nghệ thuật là hoạt động tinh thần, là “Thôi thúc bên trong”. Dường như đó chính là tình cảm, tư tưởng không nén nổi của người nghệ sĩ cất lên thành lời, thành nhạc, thành tranh… Có lẽ đó chỉ có thứ văn chương “gan ruột”. Không viết ra không được đó mới rung động được tâm hồn người khác, mới có giá trị.
Hơn nữa, đặc biệt và quan trọng hơn thì trong lĩnh vực văn chương. Chỉ có thật, chân thành, chưa đủ, mà còn phải sâu sắc, phải mới, “khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có”. Nếu như mà không sâu sắc, không phát hiện và tạo được cái mới, và không có được một cách nhìn mới. Và lại không tiếng nói mới, thì cũng không thể nào có được một chỗ đứng thật sự trong thế giới nghệ thuật. Nam Cao như trong lúc này cũng đã cảm nhận sâu xa ý nghĩa và bi kịch của cuộc đời trong những cái tư tưởng chừng nhỏ nhặt, vô nghĩa hằng ngày ở xung quanh.
Dường như những cảnh bực bội, thương tâm trong gia đình mà Hộ và Từ đã trải qua. Lòng tự tin đến ngông nghênh và sự chán chường. Những ý nghĩ cao quý và lại quá tầm thường luôn giằng xé tâm trí Hộ trong khi cầm bút. Dường như cũng là chuyện thường tình, không có gì đáng nói. Nhưng qua tài năng và tâm hồn của Nam Cao đã trở thành nỗi đau, bi kịch của con người, của cuộc sống. Nỗi đau và bi kịch của con người thừa, của đời thừa.
Tác phẩm nào của Nam Cao luôn luôn đã khiến cho mọi người ta chú ý hơn. Nhìn sâu hơn vài cái bình thường, cái hằng ngày ở xung quanh và ở chính mình. Và phải như sống có ý thức hơn, nhân ái hơn. Kéo con người ra khỏi tình trạng nhỏ nhen, lố bịch, độc ác. Và đã lại tự bằng lòng một cách vô lối, tức là làm cho người ta “bất an” như là một nhà văn có tên tuổi đã nói về chức năng của văn chương vậy. Tác phẩm “Đời thừa” sau khi đọc xong, người đọc cảm thấy nó có một kết cấu rất tự nhiên. Một câu truyện ngắn không có cốt truyện và những sự việc hầu như diễn ra hầu như không có gì.
Nam Cao đã miêu tả về quá khứ bất hạnh của Từ. Nói về quá trình gặp gỡ nên duyên vợ chồng giữa Hộ và Từ. Miêu tả về cuộc gặp gỡ với bạn làng văn của Hộ. Nhưng xoáy sâu vào câu truyện đó chính là viết nên nỗi khổ tâm của một nhà văn nghèo đó là Hộ. Chính vì cuộc sống nghèo khổ mà đã không thể thực hiện được những nguyện vọng lớn lao của cuộc đời mình. Hộ đã không thể hoàn thành nổi một tác phẩm văn chương nào thực sự có giá trị.
Lẽ ra với một nhà văn yêu nghề, tâm huyết như Hộ. Mọi nỗ lực đều sẽ hướng tới việc viết văn, dành hết tâm huyết cho nghề viết văn. Thế nhưng cảnh đời cơ cực, một người chồng, một người cha bắt buộc phải lo lắng cho miếng cơm manh áo gia đình. Nhưng trong cái xã hội đó, việc nuôi sống cả gia đình với một người nghèo khó lại càng khó. Tất tưởi vì cuộc sống mưu sinh, luôn luôn bị cái cảnh nghèo quấy rầy, sự túng quẫn. Một trí thức cũng chính vì thế mà trở nên thô bỉ hèn kém, những mộng tưởng và những khát khao dần cũng lụi tàn.
Người đọc có thể nhân thấy tâm trạng của Hộ bị giằng xé một bên là khát khao sáng tạo. Vươn tới những đỉnh cao trong văn chương và bên kia là những đòi hỏi thực dụng, cấp bách của cuộc sống gia đình. Đó là sự vất vả và cả những thiếu thốn hàng ngày. Có thể thấy đặc sắc và chiều sâu của tác phẩm là ở sự giằng xé trong tâm trạng của Hộ. Và còn nằm ở chất lượng những suy nghĩ của nhân vật chính phát ngôn cho tác giả về cuộc đời, về sáng tạo văn chương.
Những sự mới mẻ, những chiều sâu về suy nghĩ. Với cách tạo hình nhân vật, sự đơn giản trong lối văn chương đã khiến cho tác phẩm “Đời thừa” của Nam Cao diễn ra một cách rất tự nhiên. Tạo ra một sức hút đối với người đọc. Khi đọc “Đời thừa” của Nam Cao dường như người đọc sẽ có những cảm nhận vô cùng sâu sắc về những số phận nghèo khổ của tri thức trong xã hội xưa. Và những cảm thông sâu sắc về những số phận này.
Bài văn phân tích tác phẩm “Đời thừa” số 4
Đời thừa ‘là truyện ngắn xuất sắc của Nam Cao viết về người trí thức tiểu tư sản nghèo trước cách mạng. Tác phẩm. không chỉ thành công về mặt nội dung mà đặc biệt thành công về mặt nghệ thuật, nhất là nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật. Nét độc đáo của Nam Cao khi ông xây dựng tính cách nhân vật là việc nhà văn để nhàn vật vào những tình huống bộc lộ những mâu thuẫn giằng xé trong nội tâm dữ dội và sâu sắc, Hộ – nhân vật chính của Đời thừa – cũng được xây dụng theo bút pháp như vậy. Trong số những chi tiết tạo tính cách của Hộ thì chi tiết về giọt nước mắt Hộ là chi tiết mang nhiều ý nghĩa sâu sắc nhất. Đây là chi tiết ‘đắt’ nhất tác phẩm, thể hiện sự tinh tế và năng lực sở trường của nhà văn trong việc tìm kiếm và phát hiện những góc khuất của nội tâm con người.
Đời thừa chủ yếu tập trung xoay quánh tấn bi kịch tinh thần của văn sĩ Hộ: đó là bi kịch nghề nghiệp và bi kịch tình thương. Tấn bi kịch ấy sẽ mãi đeo đuổi Hộ cho đến khi giọt nước mắt ở cuối tác phẩm trở thành sự giải thoát cho anh. Trong một truyện ngắn khác cũng viết về đề tài người trí thức nghèo, Nam Cao đã dẫn lời của một nhà văn Pháp như sau: Người ta chỉxấu xa hư hỏng trước đôi mắt ráo hoảnh của phường ích kỉ, và nước mắt là một tấm kính biến hình vũ trụ. Tác phẩm ấy được Nam Cao đặt tên là Nước mắt.Giọt nước mắt của những người trí thức đương thời trở thành nỗi ám ảnh đối với nhà văn, đểông đua vào tác phẩm như một chi tiết nghệ thuật độc đáo ởĐời thừa,giọt nước mắt của Hộ là sự tự thức tỉnh, là sự cứu rỗi anh trước những sa ngã. Điều ấy có ý nghĩa quan trọng đối với nhân cách con người.
Hộ là một nhà văn trẻ, nghèo nhưng có hoài bão, có lí tưởng về nghề nghiệp. Anh bỏ qua những lo lắng về vật chất để châm chút cho sự nghiệp của mình. Anh ao ước có một tác phẩm để đời, được giải Nobel và dịch ra mọi thứ tiếng. Và đáng lẽ Hộ sẽcó cơ hội để thực hiện ước mơ của mình nếu như anh không có gánh nặng gia đình. Ây là khi Hộ cưới Từ về làm vợ và những đứa con lần lượt ra đời. Hộcó cả một gia đình phải gánh trên vai. Anh buộc phải thay đổi cách viết để lo cho cuộc sống gia đình. Anh phải viết vội, viết cho nhanh mà không có thời gian sửa chữa. Đó là một thứ văn nhạt nhẽo, vô vị và khiến người ta đọc một lần rồi quên ngay.
Hộ có thể sẽ không quan tâm đến điều ấy nếu như anh là người vô trách nhiệm. Nhưng tiếng nói của một người cầm bút chân chính khiến anh day dứt, đau đớn. Anh tựsỉ vả mình, tự coi minh là một kẻ ‘khốn nạn’, một kẻ ‘bất lương’, bởi cách viết cẩu thảấy là vi phạm nguyên tắc nghề nghiệp của anh. Song hiện thực cuộc sống không cho anh lựa chọn nào khác. Chuyện cơm áo muôn đời không đùa với những nhà văn nghèo như anh. Anh buộc phải hi sinh khát vọng nghề nghiệp để thực hiện trách nhiệm của người đàn ông trong gia đình. Bi kịch cứa Hộ là ở chỗ hiện thực cuộc sống không cho phép anh sáng tạo nghệ thuật, đè bẹp ý chí, mài mòn ước mơ của một người sẵn sàng hiến dâng cho nghệ thuật như anh.
Bi kịch nghề nghiệp đã khiến Hộvô cùng đau đớn, nhưng anh lại còn phải chịu đựng một bi kịch thứ hai, đó là bi kịch tình thương. Đối với Hộ, tình thương là nguyên tắc sống, là lẽsống cao đẹp nhất. Nó là ranh giới phân biệt giữa con người và loài vật. Anh coi trọng triết lí sống của mình, rằng kẻ mạnh không phải là kẻ dẫm lên vai người khác để thỏa mãn lòng ích kỉ, kẻ mạnh phải là kẻ nâng đỡ người khác trên đôi vai mình. Chính vì vậy, anh đã cúi xuống nỗi đau của một người phụ nữ bất hạnh như Từ, bảo tốn danh dự và mang lại hạnh phúc cho Từ. Đấy là một việc làm cao cả mà người khác khó có thể làm được. Tuy nhiên, để nuôi sống gia đình, anh phải hi sinh nghệ thuật. Và trong anh mơ hồ hiểu rằng cái gia đình nhỏ bé ấy là nguyên nhân của sự đổvỡ nghề nghiệp mà anh đang gánh chịu. Vậy là, vô tình, mọi uất ức trong anh, lúc thì dồn nén. lúc thì bùng lên không gì ngăn nổi. Anh uống rượu, anh tiêu tiền quá mức, anh cáu giận vô cớ. có lúc quát mắng, đánh đuổi vợ con. Hộ đang dần từng bước vi phạm vào nguyên tắc sống. Những việc làm, những hành động của anh đã không còn là biểu hiện của một người coi trọng tình thương nữa rồi.
Hộ cứ mãi như thế nếu không có lần anh mải đi theo bạn và uống rượu say. Khi tinh dậy, anh giật mình sợ hãi khi nhớ ra hôm qua hình như mình đã đuổi vợ con đi. Anh đưa mắt tìm kiếm và nhìn thấy Từ đang ôm con ngủ trên võng. Hộ tuôn trào nước mắt khi nhìn khuôn mặt và dáng hình mềm yếu gầy gò của vợ. Anh nhận ra sai lầm của mình. Không, gia đình không phải là nguyên nhân mọi nỗi bất hạnh của anh. Đấy là nơi anh sống để thực hiện nhân cách con người. Giọt nước mắt ấy không phủi là sự yếu đuối nhất thời trong Hộ mà nó nâng đỡ, bảo vệ nhân cách của anh. Hiện thực cuộc sống không cho phép Hộ thực hiện ước mơ nghề nghiệp, nhưng anh vẫn được làm người theo nghĩa đầy đủ. Nhưng nếu anh tiếp tục vi phạm cả vào nguyên tắc sống thìanh sẽ vượt qua ranh giới của con người. Giọt nước mắt đã thanh lọc tâm hồn anh, cứu anh thoát khỏi những sai lầm bế tắc. Sự thức tỉnh, sám hối ấy chính là quá trình tự đấu tranh của người trí thức trước những cám dỗ của cuộc đời.
Điền trong Nước mắthay Hộ trong Đời thừa là minh chứng cho số phận của người trí thức nghèo trong xã hội đương thời. Giọt nước mắt của những con người ấy trở thành một ‘mã’ nghệ thuật để nhà văn thể hiện ý nghĩa tác phẩm. Trở đi trở lại trong tác phẩm Nam Cao là vấn đề người nghệsĩ chân chính trước hiện thực cuộc sống, và người ta thấy trong đó thấp thoáng cả hình ảnh của bản thân nhà văn. Qua đó nhà văn đã lên án tố cáo xã hội đương thời không tạo điểu kiện cho người trí thức thực hiện ước mơ, nguyện vọng chính đáng của mình, không cho họcó cơ hội được đem tài năng cống hiến cho xã hội, khiến họ phải sống kiếp sống mòn, một cuộc đời thừa.
Nói tóm lại, chi tiết giọt nước mắt của nhân vật Hộ không chỉ là chế tiết để nhà văn thể hiện tâm lí nhân vật mà nó còn chứa đựng nội dung tư tưởng sâu sắc. Đối với tác phẩm của Nam Cao, nước mắt không phải là biểu liên của những yếu đuối, đớn hèn, ủy mị mà nó là vũ khí bảo vệ danh dự và nhân phẩm của con người. Chính điều đó đã làm nên một cá tính sáng tạo riêng của nhà văn, một gương mặt không thể trộn lẫn.
Bài văn phân tích tác phẩm “Đời thừa” số 5
Truyện ngắn độc đáo và đặc sắc ‘Đời thừa” được viết năm 1943. Có thể côi đây là một trong những tác phẩm đóng góp không nhỏ về mặt chủ đề chuẩn bị trực tiếp cho tiểu thuyết nổi tiếng “Sông mòn” sau đó của nhà văn Nam Cao vào năm 1944. Và qua tác phẩm hình ảnh người trí thức được miêu tả trong cái nghèo và những hoài bão bị nhấn chìm khi bị cái nghèo đeo bám.
“Đời thừa” là một tác phẩm viết về cuộc sống của một trí thức nghèo, một nhà văn. Hộ là một con người trung thực, và lại còn rất mực thương yêu vợ con. Hộ là một người rất có trách nhiệm đối với gia đình, là một người cầm bút có suy nghĩ đúng đắn, anh luôn luôn nghiêm túc về nghề nghiệp hơn nữa lại có hoài bão xây dựng được mội tác phẩm thật có giá trị “sẽ làm mờ hết các tác phẩm cùng ra một thời”, thậm chí có thể được trao giải Nobel. Nhưng thực tế thật phũ phàng khi Hộ phải chịu bao nhiêu cảnh buồn lo, đó là những sự cực nhục trong cuộc sống. Hộ dường như đã phải làm quần quật nhưng vẫn không kiếm đủ tiền để nuôi sống gia đình, chạy chữa thuốc men cho một bầy con nhỏ quặt quẹo, ốm luôn.
Được xây dựng lên là một người đàn ông và là một người chồng, một người cha rất có tinh thần tự trọng, Hộ có lẽ rằng rất khổ tâm trước cảnh nhà túng thiếu, nhất là nhìn thấy Từ, vợ mình, người đàn bà này dường như cũng đã chịu nhiều đau khổ với người tình cũ, đến với mình đầy ân nghĩa, lại phải chịu đựng khổ sở, lầm lũi, vất vả quá. Lúng túng, khổ tâm vì chuyện gia đình. Hộ dường như cũng không mấy khi được ngồi viết văn một cách thanh thản, thực hiện được những điều mình ưa thích, mong muốn. Chính cái nghèo đã khiến cho nhà văn Hộ viết nhanh, cẩu thả trong văn chương, những bài viết mà người ta đọc xong lại quên luôn. Hộ cảm thấy thật tủi nhục và xấu hổ với chính bản thân mình và cả với ước mơ hoài bão trước đây.
Có thể nói rằng trong hoàn cảnh như vậy, những người như Từ chỉ biết chịu đựng, nhẫn nhục, và càng hiểu chồng, thương chồng. Nhưng dường như ở Hộ là một nhà văn, Hộ như đã càng thấy hoàn cảnh sống thật là nặng nề, như không có lối thoát, một bi kịch thật sự. Văn sĩ Hộ có lúc nói ra miệng là vợ con làm khổ mình, nhưng trong thâm tâm anh biết không phải như vậy. Có lẽ chẳng biết trách ai, anh tự trách mình, xỉ vả mình, gặm nhấm một mình nỗi bất bình và đau khổ.
Nhân vật chính trong tác phẩm là nhà văn. Chính vì vậy cho nên trong tác phẩm, thông qua cuộc sống và nhất là suy nghĩ của nhân vật Nam Cao như cũng đã đề cặp trực tiếp đến một vấn đề mà ông thường xuyên quan tâm, đó chính là vấn đề sáng tạo nghệ thuật, quan niệm và yêu cầu của ông về văn chương. Hộ rất thiết tha với nghề văn. Sáng tạo văn chương là khát vọng, là lí tưởng của đời Hộ. Lúc đầu, Hộ coi khinh những lo lắng tùn mùn về vật chất, dồn hết tâm sức vun trồng cho cái tài mỗi ngày một thêm nảy nở. Hộ đọc, ngẫm nghĩ, tìm tòi, nhận xét và suy tưởng không biết chán. Hộ biết đi vào nghề văn sẽ nghèo, sẽ khổ, nhưng Hộ chấp nhận. Và chính với văn chương cũng mang lại cho Hộ niềm vui không gì sánh được. Mỗi lần Hộ tâm sự với vợ nhân đọc được một đoạn văn hay cả.
Và để rồi khi Hộ đã phải viết cẩu thả cho nhanh những tác phẩm không ra sao để có thể có thêm tiền lo cho cuộc sống. Chính cái nghèo đói đã là Hộ trở thành một “kẻ đê tiện” trong văn chương. Và đây cũng chính là quan niệm của nhà văn Nam Cao gửi gắm vào đó. Người đọc như cũng đã hắc chắn đó cũng là mong ước, là yêu cầu của Nam Cao về một tác phẩm hay, về văn chương. Văn chương đối với Hộ hay chính là nhà văn Nam Cao không chỉ là nghề mà còn là nghiệp, một sự ràng buộc, một nhu cầu nội tại văn chương. Và cả về phương diện sáng tác cũng như thưởng thức, là nỗi đau mà cũng là niềm vui, là hạnh phúc, tự nguyện của từng người. Văn chương dường như đã được xem là lĩnh vực của tài năng, của sự liên tài. Ta như đã có thể thấy tác dụng cao quý của văn chương là nhân đạo hóa xã hội và cuộc sống ngày nay, làm cho con người cảm thông với nhau, gần gũi nhau.
Nhà văn Nam Cao dường như cũng đã phê phán nghiêm khắc bệnh cẩu thả trong văn chương xem những người viết văn cẩu thả là những tên bất lương. Ông viết: “Sự cẩu thả trong bất cứ nghề gì cũng là một sự bất lương rồi. Nhưng sự cẩu thả trong văn chương thì thật là đê tiện”. Nam Cao cũng đã khẳng định quyết liệt và rất rõ ràng viết văn, làm nghệ thuật là tìm tòi phát hiện, sáng tạo, và đặc biệt là phải không ngừng, mang đến cho người đọc một cái gì lạ, và đó chính là một cái gì mới, một cái gì độc đáo, mà điều này thì chỉ có tài năng và công phu mới làm được. Nam Cao viết rằng “Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp được những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những cái gì chưa có”!
Có thể nói rang đó là quan niệm rất chính xác, một yêu cầu rất cao về văn chương. Là nhà văn là nhà nghệ sĩ tất nhiên phải biết “hành nghề” thì tất nhiên phải am hiểu về kĩ thuật, phải “khéo tay” ở một mức độ nhất định, nhất là trong một số ngành nghệ thuật nào đó, chẳng hạn như điêu khắc, biểu diễn âm nhạc rồi,…Nhưng dường như đối với các nhà văn, nghệ sĩ, về bản chất hoạt động mà nói, không phải là người thợ, cho dù là thợ khéo tay, làm theo những kiểu mẫu có sẵn, làm theo “đơn đặt hàng” của người khác. Văn chương nghệ thuật là hoạt động tinh thần, là “Thôi thúc bên trong” dường như đó chính là tình cảm, tư tưởng không nén nổi của người nghệ sĩ cất lên thành lời, thành nhạc, thành tranh… Có lẽ đó chỉ có thứ văn chương “gan ruột”, không viết ra không được đó mới rung động được tâm hồn người khác, mới có giá trị.
Hơn nữa, đặc biệt và quan trọng hơn thì trong lĩnh vực văn chương, chỉ có thật, chân thành, chưa đủ, mà còn phải sâu sắc, phải mới, “khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có”. Nếu như mà không sâu sắc, không phát hiện và tạo được cái mới,và không có được một cách nhìn mới, và lại khôngtiếng nói mới, thì cũng không thể nào có được một chỗ đứng thật sự trong thế giới nghệ thuật. Nam Cao như trong lúc này cũng đã cảm nhận sâu xa ý nghĩa và bi kịch của cuộc đời trong những cái tư tưởng chừng nhỏ nhặt, vô nghĩa hằng ngày ở xung quanh.
Dường như những cảnh bực bội, thương tâm trong gia đình mà Hộ và Từ đã trải qua, lòng tự tin đến ngông nghênh và sự chán chường, những ý nghĩ cao quý và lại quá tầm thường luôn giằng xé tâm trí Hộ trong khi cầm bút. Dường như cũng là chuyện thường tình, không có gì đáng nói, nhưng qua tài năng và tâm hồn của Nam Cao đã trở thành nỗi đau, bi kịch của con người, của cuộc sống, nỗi đau và bi kịch của con người thừa, của đời thừa. Tác phẩm nào của Nam Cao luôn luôn đã khiến cho mọi người ta chú ý hơn, nhìn sâu hơn vài cái bình thường, cái hằng ngày ở xung quanh và ở chính mình. Và phải như sống có ý thức hơn, nhân ái hơn, kéo con người ra khỏi tình trạng nhỏ nhen, lố bịch, độc ác, và đã lạitự bằng lòng một cách vô lối, tức là làm cho người ta “bất an” như là một nhà văn có tên tuổi đã nói về chức năng của văn chương vậy.
Có thể thấy rằng “Đời thừa” đã có một kết cấu rất tự nhiên. Và suy cho cùng thực chất đây là một loại truyện không có cốt chuyện. Chính những sự việc hầu như không có gì. Nhà văn có nói qua về quá khứ bất hạnh của Từ, cả về quá trình Hộ và Từ quen biết nhau và nên vợ nên chồng. Hay cả về một buổi gặp gỡ giữa Hộ và các bạn làng văn, nhưng lại như đã được tập trung chủ yếu vào suy nghĩ và nỗi khổ tâm củ Hộ, cũng chính vì không được thực hiện nguyện vọng thiết tha của đời mình là viết văn, hoàn thành những tác phẩm thật có giá trị như mình mong ước và tin rằng có khả năng làm được.
Và có lẽ ra phải dồn hết tâm lực cho văn chương, cống hiến cho sự nghiệp cao quý đã lựa chọn tất cả những gì tốt đẹp nhất của mình, thì Hộ dường như lại tất tưởi lo kiếm sống, luôn luôn bị quấy rầy bởi cảnh gia đình nheo nhóc, túng quấn, do đó mà con người cũng trở nên thô bỉ, hèn kém, mộng tưởng ban đầu cũng tàn lụi dần. Người đọc có thể nhân thấy tâm trạng của Hộ bị giằng xé một bên là khát khao sáng tạo, vươn tới những đỉnh cao trong văn chương và, bên kia, là những đòi hỏi thực dụng, cấp bách của cuộc sống gia đình vất vả, đó là cả những thiếu thốn hàng ngày. Có thể thấy đặc sắc và chiều sâu của tác phẩm là ở sự giằng xé trong tâm trạng của Hộ, và còn nằm ở chất lượng những suy nghĩ của nhân vật chính phát ngôn cho tác giả về cuộc đời, về sáng tạo văn chương.
Dường như những chiều sâu và sự mới mẻ của chủ đề, chất lượng suy nghĩ, chất thơ và chất trữ tình đã tạo nên sức hấp dẫn đặc biệt cho tác phẩm độc đáo “Đời thừa’, có lẽ như cũng như cho nhiều tác phẩm khác của Nam Cao có cấu tạo một cách rất tự nhiên, đã khiến cho người đọc có thể trở lại nhiều lần với truyện ngắn của ông, dừng lại trên từng ý, từng câu văn ông viết ra.
Bài văn phân tích tác phẩm “Đời thừa” số 6
Nam Cao là nhà văn xuất sắc của nền văn học Việt Nam, ông có rất nhiều tác phẩm viết trong giai đoạn trước năm 1945, trong những sáng tác của ông có thể kể đến là tác phẩm Đời Thừa của Nam Cao, hay Chí Phèo, mỗi tác phẩm đều phản ánh hiện thực xã hội lúc bấy giờ.
Trước tình hình xã hội có nhiều rối ren, Nam Cao luôn thể hiện được khao khát của mình trước hiện thực xã hội, luôn phản ánh xã hội một cách sâu sắc, mang nhiều ý nghĩa nhất. Mỗi chi tiết đều là những nội tâm được giằng xé trong cách sáng tạo của nhân vật về cuộc sống, cũng như phản ánh xã hội hiện thực lúc bấy giờ. Tác phẩm đã thể hiện sự khắc nghiệt của xã hội lúc bấy giờ, nó biến con người trở thành những những người bị tha hóa do xã hội đưa đẩy, biến người tri thức phải chịu cảnh nặng nề về cơm áo gạo tiền trong xã hội.
Qua cách xây dựng tình huống đầy mâu thuẫn, Nam Cao muốn xây dựng lên tác phẩm nhằm tố cáo hiện thực xã hội lúc bấy giờ, ở đây con người luôn phải trải qua những sóng gió, đè nặng của cuộc sống. Với tình hình xã hội khó khăn, con người đang bị bủa vây bởi cái đói, chính tấm bi kịch của nhân vật Hộ là dụng ý để tác giả phản ánh những vấn đề của thời đại, của xã hội phong kiến thời bấy giờ.
Với bao khát vọng, lý tưởng, nhưng bị xã hội vùi dập xuống, ước mơ, hoài bão đó đã làm kìm nén đi ước mơ, họ đang phải đối mặt với cuộc sống đói khổ, rồi chìm vào những tấm bi kịch của thời đại. Nhân vật Hộ hiện lên trong tác phẩm là một nhà văn, người tri thức, nhưng vì cái đói, khổ mà biết bao nhiêu hoài bão của nhân vật này bị tan biến, ông rằn vặt chính bản thân mình, là người vô tích sự, không làm được gì cho gia đình, chính vì thế, ông lâm vào bi kịch của cuộc sống hôn nhân. Chính cái nghèo đói đã làm cho những người tri thức đó bị tha hóa, không có một lối thoát nào.
Nam Cao đã xây dựng thành công nên hình tượng nhân vật của mình, với những nét tinh tế trong phong cách sáng tác, ông để cho nhân vật của mình biểu lộ dòng tâm trạng, thể hiện tình cảm nội tâm, ông để cho nhân vật của mình độc thoại, qua đó toát lên được diễn biến tâm lý, khi nhân vật Hộ ngộ ra được cuộc sống hiện thực, ông thoát ly hoàn toàn với cuộc sống trong văn chương.
Chính cái nghèo đã làm cho những người nghệ sĩ trở nên buồn tủi, trước hiện thực xã hội, nhiều khó khăn, bất cập, biết bao nhiêu giá trị, hồi ức, xuất hiện, ông đau khổ trước cuộc sống hiện tại. Trước hiện thực xã hội nhà văn đã phản ánh sâu sắc được hiện thực xã hội. Đúng như quan điểm của Nam Cao về cuộc sống, nghệ thuật không phải là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật phải là kiếp đau khổ, thoát nên từ những kiếp lầm than, quả đúng như vậy, mỗi sáng tác của ông đã để lại cho người đọc những suy ngẫm về cuộc sống, tương lai và giá trị hiện thực được phản ánh sâu sắc, tinh tế nhất.
Đời thừa là tác phẩm phản ánh sâu sắc hiện thực xã hội, ở đó người tri thức bị xã hội hóa, bị đẩy vào tấm bi kịch, họ rơi vào áp lực cơm áo gạo tiền, mà chà đạp lên nghệ thuật chân chính, chính cái nghèo đói, đã biến những người làm nghệ thuật chân chính, phải phá vỡ quy tắc mà mình đã đề ra.
Chính sự nghèo đói làm tha hóa tâm hồn của những người nghệ sĩ chân chính, người nghệ sĩ là người luôn sáng tạo, chứ không làm theo những khuôn mẫu có sẵn, người nghệ sĩ phải tài năng, và thể hiện sự sáng tạo của mình. Có thể nói Nam Cao đã khắc họa sâu sắc được hình ảnh người tri thức đang bị tha hóa trong xã hội nghèo đói.
Trong xã hội trước năm 1945 con người luôn phải chịu sự khổ cực do nghèo đói bủa vây, con người bị tha hóa, những người nghệ sĩ chân chính cũng luôn phải chịu áp lực tiền bạc, cơm áo hàng ngày, để rồi bị tha hóa đi tâm hồn của những người nghệ sĩ.
Bài văn phân tích tác phẩm “Đời thừa” số 7
Truyện ngắn Đời thừa viết năm 1943. Có thể xem Đời thừa, về mặt chủ đề, góp phần chuẩn bị trực tiếp cho tiểu thuyết Sống mòn của nhà văn hoàn thành vào năm sau đó, năm 1944. Không phải ngẫu nhiên mà cả hai tác phẩm đều có tính chất tự truyện và nhan đề đều bộc lộ một tâm trạng, một tư tưởng sáng tạo gần gũi nhau.
Đời thừa viết về cuộc sống của một trí thức nghèo, một nhà văn. Hộ là một con người trung thực, thương yêu vợ con, rất có trách nhiệm đối với gia đình, là một người cầm bút có suy nghĩ đúng đắn, nghiêm túc về nghề pghiệp, có hoài bão xây dựng được mội tác phẩm thật có giá trị “sẽ làm mờ hết các tác phẩm cùng ra một thời”, thậm chí có thể được trao giải Nobel. Nhưng trong thực tế, Hộ phải chịu bao nhiêu cảnh buồn lo, cực nhục trong cuộc sống. Hộ phải làm quần quật nhưng vẫn không kiếm đủ tiền để nuôi sống gia đình, chạy chữa thuốc men cho một bầy con nhỏ quặt quẹo, ốm luôn. Là một người đàn ông, một người chồng, một người cha có tinh thần tự trọng, Hộ rất khổ tâm trước cảnh nhà túng thiếu, nhất là nhìn thấy Từ, vợ mình, người đàn bà đã chịu nhiều đau khổ với người tình cũ, đến với mình đầy ân nghĩa, lại phải chịu đựng, lầm lũi, vất vả quá. Lúng túng, khổ tâm vì chuyện gia đình.
Hộ không mấy khi được ngồi viết văn một cách thanh thản, thực hiện được những điều mình ưa thích, mong muốn. Và bất chấp động cơ, ý nghĩa tốt đẹp, Hộ phải viết một cách cẩu thả, bôi bác, đế kiếm tiền, tạo ra những sản phẩm mà mỗi lần đọc lại “hắn lại đỏ mặt lên, cau mày, nghiến răng, vò nát sách mà mắng mình như một thằng khốn nạn”. Những sự dằn vặt trong gia đình vì nghèo, vì cảnh vợ con nheo nhóc, thêm sự bất mãn, sự xấu hổ trong việc viết văn mà Hộ thiết tha và đặt bao nhiêu hi vọng, càng ngày càng biến Hộ thành một người bẩn tính, thô bạo, bất cần. Hộ mắng chửi vợ con, say rượu liên miên. Nhưng mỗi khi tỉnh lại, Hộ lại buồn bã, hối hận, càng thương vợ thương con và tự trách mình. Qua tác phẩm của Nam Cao, ta thấy những người tốt, những người có mơ ước hoài bão, những người lao động trung thực, cần cù, sao mà khổ quá, khổ cả về vật chất và tinh thần!
Trong hoàn cảnh như vậy, những người như Từ chỉ biết chịu đựng, nhẫn nhục, và càng hiểu chồng, thương chồng. Nhưng Hộ là một nhà văn, Hộ càng thấy hoàn cảnh sống thật là nặng nề, không lối thoát, một bi kịch thật sự. Hộ có lúc nói ra miệng là vợ con làm khổ mình, nhưng trong thâm tâm anh biết không phải như vậy. Chẳng biết trách ai, anh tự trách mình, xỉ vả mình, gặm nhấm một mình nỗi bất bình và đau khổ. Nhân vật chính trong tác phẩm là nhà văn. Cho nên trong tác phẩm, thông qua cuộc sống và nhất là suy nghĩ của nhân vật Nam Cao đã đề cặp trực tiếp đến một vấn đề mà ông thường xuyên quan tâm, đó là vấn đề sáng tạo nghệ thuật, quan niệm và yêu cầu của ông về văn chương.
Hộ rất thiết tha với nghề văn. Sáng tạo văn chương là khát vọng, là lí tưởng của đời Hộ. Lúc đầu, Hộ coi khinh những lo lắng tùn mùn về vật chất, dồn hết tâm sức vun trồng cho cái tài mỗi ngày một thêm nảy nở. Hộ đọc, ngẫm nghĩ, tìm tòi, nhận xét và suy tưởng không biết chán. Hộ biết đi vào nghề văn sẽ nghèo, sẽ khổ, nhưng Hộ chấp nhận. Văn chương cũng mang lại cho Hộ niềm vui không gì sánh được. Mỗi lần Hộ tâm sự với vợ nhân đọc được một đoạn văn hay: « … Này, Từ ạ… Nghĩ cho kỉ, đời tôi không đáng khổ mà hóa khổ, chính tôi làm cái thân tôi khổ, tôi mê văn quá nên mới khổ. Ấy thế, mà tuy khổ thật, nhưng thử có người giàu bạc vạn nào thuận đổi lấy cái địa vị của tôi, chưa chắc tôi đã đổi. Tôi cho rằng: những khi được đọc một đoạn văn như đoạn này, mà lại hiểu được tất cả cái hay thì dẫu ăn một món ngon đến đâu cũng không thích bằng. Sướng lắm! Sao thiên hạ lại có người tài đến thế?”
Theo Hộ, một tác phẩm thật có giá trị, tác phẩm Hộ mong viết được trong cả một đời văn của mình, không thể chỉ có giá trị địa phương thôi, không chỉ tả được cái bề ngoài của xã hội, mà “Phải vượt lên trên tất cả các bờ cõi và giới hạn, phải là một tác phẩm chung cho cả loài người. Nó phải chứa đựng được một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau dớn lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tính bác ái, sự công bình. Nó làm cho người gần người hơn”
Chắc chắn đó cũng là mong ước, là yêu cầu của Nam Cao về một tác phẩm hay, về văn chương. Văn chương không chỉ là nghề mà còn là nghiệp, một sự ràng buộc, một nhu cầu nội tại văn chương, về phương diện sáng tác cũng như thưởng thức, là nỗi đau mà cũng là niềm vui, là hạnh phúc, tự nguyện của từng người. Văn chương là lĩnh vực của tài năng, của sự liên tài. Tác dụng cao quý của văn chương là nhân đạo hóa xã hội và cuộc sống, làm cho con người cảm thông với nhau, gần gũi nhau.
Nam Cao phê phán nghiêm khắc bệnh cẩu thả trong văn chương xem những người viết văn cẩu thả là những tên bất lương. Ông viết: “Sự cẩu thả trong bất cứ nghề gì cũng là một sự bất lương rồi. Nhưng sự cẩu thả trong văn chương thì thật là đê tiện”. Nam Cao cũng khẳng định rất rõ ràng viết văn, làm nghệ thuật là tìm tòi phát hiện, sáng tạo: không ngừng, mang đến cho người đọc một cái gì lạ, một cái gì mới, một cái gì độc đáo, mà điều này thì chỉ có tài năng và công phu mới làm được. Nam Cao viết: “Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp được những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những cái gì chưa có”!
Đó là quan niệm rất chính xác, một yêu cầu rất cao về văn chương. Nhà văn, nghệ sĩ tất nhiên phải biết “hành nghề”, phải am hiểu về kĩ thuật, phải “khéo tay” ở một mức độ nhất định, nhất là trong một số ngành nghệ thuật nào đó, chẳng hạn như điêu khắc, biểu diễn âm nhạc v.v… Nhưng nhà văn, nghệ sĩ, về bản chất hoạt động mà nói, không phải là người thợ, cho dù là thợ khéo tay, làm theo những kiểu mẫu có sẵn, theo “đơn đặt hàng” của người khác. Văn chương nghệ thuật là hoạt động tinh thần, là “Thôi thúc bên trong” là tình cảm, tư tưởng không nén nổi của người nghệ sĩ cất lên thành lời, thành nhạc, thành tranh… Chỉ có thứ văn chương “gan ruột”, không viết ra không được đó mới rung động được tâm hồn người khác, mới có giá trị.
Hơn nữa, trong lĩnh vực văn chương, chỉ có thật, chân thành, chưa đủ, mà còn phải sâu sắc, phải mới, “khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có”. Không sâu sắc, không phát hiện và tạo được cái mới, không có được một cách nhìn mới, tiếng nói mới, thì cũng không thể nào có được một chỗ đứng thật sự trong thế giới nghệ thuật.
Theo Nam Cao những nguời cầm bút chì viết được những cái vô vị, nhạt nhẽo, gợi những tình cảm nông cạn, “diễn một vài ý rất thông thường quấy loãng trong một thứ văn bằng phẳng và quá ư dễ dãi”, chẳng đem một chút mới lạ gì đến văn chương, là những kẻ vô ích, những người thừa. Trong tác phẩm, Nam Cao đã dùng các khái niệm người thừa, đời thừa theo một nghĩa xác đinh. Thừa là không có ích, không cần thiết cho con người, xã hội. Chỉ có những con người trung thực, những người có suy nghĩ đúng và có yêu cầu về giá trị của con người trong cuộc sống, về sự sáng tạo đích thực, mới biết thế nào là thừa, mới dám nhận và xót xa về tình trạng thừa của mình. Người thừa, đời thừa là một nhận thức, một tiếng kêu về sự vô vị, bế tắc trong cuộc sống.
Chủ đề này Nam Cao đã nêu ra dưới dạng này, dạng khác trong nhiều truyện ngắn của mình, đặc biệt là sau này đã khai thác một cách rộng hơn, sâu hơn trong tiểu thuyết Sống mòn. Những nhân vật của Nam Cao, đặc biệt là những nhân vật trí thức, thường sống nhiều với nội tâm. Để trình bày đời sống bên trong của nhân vật, có khi tác giả trực tiếp dùng biện pháp miêu tả tâm lí, nhưng lại hay để cho nhân vật tự bộc lộ, tự nói với mình, “độc thoại bên trong”. Trong Đời thừa, Nam Cao cũng kết hợp hai biện pháp: miêu tả những hành động cử chỉ của nhân vật, quan hệ, lời ăn tiếng nói của nhân vật, đồng thời để nhân vật tự bộc lộ, tự nói với mình (độc thoại bên trong).
Chính do vậy mà tác phẩm mang nhiều tính chất trữ tình, nhiều đoạn văn thật sự làm xúc động người đọc, vì những sụy nghĩ chân thành, vì những nỗi đau của nhân vật và của chính tác giả. Ở chiều sâu của Đời thừa, có một chất thơ từ niềm khát khao cái đẹp, khát khao một cuộc sống trong đó con người biết thương yêu nhau và có thể sống một cách xứng đáng, có ý nghĩa. Nam Cao hay nói đến Tsêkhốp, mong viết được như Tsêkhốp. Ở Nam Cao, cũng có chất thơ, chất trữ tình, có nỗi buồn, tình yêu thương xót xa đối với con người như ở Tsêkhốp. Và, cũng như Tsêkhốp Nam Cao cảm nhận sâu xa ý nghĩa và bi kịch của cuộc đời trong những cái tư tưởng chừng nhỏ nhặt, vô nghĩa hằng ngày ở xung quanh.
Những cảnh bực bội, thương tâm trong gia đình mà Hộ và Từ đã trải qua, lòng tự tin đến ngông nghênh và sự chán chường, những ý nghĩ cao quý và tầm thường luôn giằng xé tâm trí Hộ trong khi cầm bút, cũng là chuyện thường tình, không có gì đáng nói, nhưng qua tài năng và tâm hồn của Nam Cao đã trở thành nỗi đau, bi kịch của con người, của cuộc sống, nỗi đau và bi kịch của con người thừa, của đời thừa. Tác phẩm của Nam Cao luôn luôn khiến người ta chú ý hơn, nhìn sâu hơn vài cái bình thường, cái hằng ngày ở xung quanh và ở chính mình, sống có ý thức hơn, nhân ái hơn, kéo con người ra khỏi tình trạng nhỏ nhen, lố bịch, độc ác, tự bằng lòng một cách vô lối, tức là làm cho người ta “bất an” như một nhà văn có tên tuổi đã nói về chức năng của văn chương.
Đời thừa có một kết cấu rất tự nhiên. Thực chất đây là một loại truyện không có cốt chuyện. Sự việc hầu như không có gì. Nhà văn có nói qua về quá khứ bất hạnh của Từ, về quá trình Hộ và Từ quen biết nhau và nên vợ nên chồng, về một buổi gặp gỡ giữa Hộ và các bạn làng văn, nhưng tập trung chủ yếu vào suy nghĩ và nỗi khổ tâm củ Hộ vì không được thực hiện nguyện vọng thiết tha của đời mình là viết văn, hoàn thành những tác phẩm thật có giá trị như mình mong ước và tin rằng có khả năng làm được.
Lẽ ra phải dồn hết tâm lực cho văn chương, cống hiến cho sự nghiệp cao quý đã lựa chọn tất cả những gì tốt đẹp nhất của mình, thì Hộ lại tất tưởi lo kiếm sống, luôn luôn bị quấy rầy bởi cảnh gia đình nheo nhóc, túng quấn, do đó mà con người cũng trở nên thô bỉ, hèn kém, mộng tưởng ban đầu cũng tàn lụi dần. Tâm trạng của Hộ bị giằng xé một bên là khát khao sáng tạo, vươn tới những đỉnh cao trong văn chương và, bên kia, là những đòi hỏi thực dụng, cấp bách của cuộc sống gia đình vất vả, thiếu thốn hàng ngày. Đặc sắc và chiều sâu của tác phẩm là ở sự giằng xé trong tâm trạng của Hộ, ở chất lượng những suy nghĩ của nhân vật chính phát ngôn cho tác giả về cuộc đời, về sáng tạo văn chương.
Có thể nói nhân vật trong Đợi thừa là một nhân vật – tâm trạng. Chất thơ, chất trữ tình bàng bạc khắp tác phẩm do đấy mà ra. Chiều sâu và sự mới mẻ của chủ đề, chất lượng suy nghĩ, chất thơ và chất trữ tình đã tạo nên sức hấp dẫn đặc biệt cho Đời thừa, cũng như cho nhiều tác phẩm khác của Nam Cao có cấu tạo một cách rất tự nhiên, khiến cho người đọc có thể trở lại nhiều lần với truyện ngắn của ông, dừng lại trên từng ý, từng câu văn ông viết ra.
Bài văn phân tích tác phẩm “Đời thừa” số 8
Nam cao là một nhà văn nổi tiếng trong nền văn học Việt Nam, ông đi sâu vào chủ nghĩa hiện thực, lột tả hết những cái khốn khổ của lớp dân lành trong xã hội cũ từ người nông dân cho đến người trí thức. Hầu hết những tác phẩm ấy đều có cốt truyện là tấn bi kịch của cuộc đời nhân vật chính, tuy nhiên vẫn thấm đượm tính nhân văn sâu sắc trong từng câu chữ, đặc biệt là tấm lòng yêu thương đồng loại và Đời thừa chính là một tác phẩm như vậy.
Nam Cao (1917-1951), quê tại tỉnh Hà Nam, sống trong cảnh đất nước lầm than, đâu đâu cũng thấy cảnh nghèo đói tang thương, với nền tảng nghệ thuật vị nhân sinh, Nam Cao sớm ý thức được tinh thần Cách mạng, ông vừa tham gia chiến đấu vừa viết văn với vai trò là một nhà báo ở chiến trường. Trong đời viết văn của mình Nam Cao có rất nhiều quan điểm nghệ thuật đậm tính nhân văn và sâu sắc, ấn tượng nhất là câu nói: “Chao ôi, nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối; nghệ thuật chỉ có thể là tiếng kêu đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than và nhà văn không được trốn tránh nghệ thuật mà phải đứng trong lao khổ mở hồn ra đón lấy những vang động của đời”. Rằng nghệ thuật phải gắn liền với cuộc sống của con người, đi sâu vào cái bi kịch khổ đau để mà thấu hiểu cảm thông. Những tác phẩm nổi tiếng của Nam Cao phải kể đến Chí Phèo, Đời thừa, sau cách mạng tháng tám thì cóĐôi mắt, tác phẩm đánh dấu sự thay đổi trong cách nhìn nhận và quan điểm nghệ thuật của nhà văn.
Đời thừa được viết và đăng báo lần đầu tiên vào năm 1943, đây là một tác phẩm đặc sắc của Nam Cao nói về số phận của giới tri trức trong nhưng năm trước cách mạng, được ví như một tác phẩm văn học dành cho cả loài người bởi nó đã vượt qua khỏi mọi ranh giới của lòng bao dung giữa người với người, đấy là thứ tình cảm đáng trân quý biết bao. Càng khẳng định được công việc làm nghệ thuật không phải chỉ làm qua loa đại khái cho có lệ, mà đó là cả một công trình dày đặc tâm sức mà người nghệ sĩ phải bỏ ra bao gồm cả máu và nước mắt. Nếu viết văn mà cẩu thả thì đó gọi là vô lương tâm, là bất lương, là đê tiện bởi tác phẩm là đứa con tinh thần bất diệt của nhà văn. Tất cả những điều kể trên đều được thể hiện trong tác phẩm Đời thừa mà nhân vật chính là Hộ, một trí thức có niềm đam mê văn học nhưng lại phải đi ngược lại với cái mong muốn của mình vì phải kiếm tiền cưu mang vợ con, điều đó đã đẩy Hộ vào tấn bi kịch cuộc đời, vào một cái vòng luẩn quẩn không lối thoát.
Câu chuyện mở đầu bằng ánh mắt của Từ, vợ Hộ nhìn anh bằng ánh mắt rụt rè mà trong đó là niềm thương yêu sự nhẫn nhịn, hình ảnh nhân vật Hộ hiện lên thật rõ nét, điều ấy cũng phần nào bao quát được cuộc sống hiện tại của Hộ. Đôi mày rậm chau lại, trán có nếp nhăn, đôi gò má cao bóng nhẫy, mũi cũng cao mà thẳng tắp, đôi mắt sáng hơi lồi. Tất cả những nét đó đem đến cho Hộ một vẻ “hốc hác” và “trông khắc khổ đến thành dữ tợn”, đến cả người hàng ngày đầu ấp tay gối với anh cũng thấy sợ “Từ thấy sợ”.
Nói đến Từ người phụ nữ có số phận bất hạnh, từng khóc cạn nước mắt, định chết cùng đứa con mới đẻ khi bị kẻ nhân tình sở khanh ruồng bỏ. Nhưng đời Từ đã chuyển sang một hướng khác, khi được Hộ một chàng trai tốt bụng lại yêu văn chương cưu mang, nhận làm vợ và trở thành một người mẹ, người vợ cam chịu, nhẫn nhịn. Nam Cao so sánh tình yêu của Từ dành cho chồng gần như tình cảm của một con chó đối với chủ nhân của nó. “Từ là một người vợ rất ngoan, rất phục tùng, rất tận tâm”, suốt mấy năm trời Từ chưa một lần nào có ý nghĩ khác, hay cãi lại chồng, bởi đối với Từ, Hộ không chỉ là người cứu vớt cuộc đời mình ra khỏi vũng bùn lầy mà còn là người mà Từ phải mang ân suốt đời, thay cho cả mẹ gìa và con thơ của mình. Từ không có gì cả, Từ chỉ có đôi bàn tay trắng, sự dịu dàng đúng mực và lòng biết ơn sâu sắc nên dù có phải làm nô lệ cho Hộ, cô cũng chẳng từ nan.
Hộ thế nhưng cũng không sung sướng được bao lâu, bởi sau cái hành vi đầy nhân đạo của mình, cùng với tình yêu của vợ thì Hộ lại rẽ vào một con đường khác và đó không phải là lý tưởng của anh. Hộ nghèo, đúng vậy nhà văn thuở trước cách mạng làm gì có ai giàu, may mắn lắm thì đủ bữa ăn, bữa mặc, nuôi thân còn khó huống chi đến việc nuôi cả một gia đình, vừa vợ vừa mấy đứa con thơ dại đang chờ Hộ mang tiền về. Từ đây Hộ bước ra khỏi con đường viết văn chân chính với những tác phẩm tràn đầy tâm huyết, từ bỏ thứ hoài bão lớn lao mà anh từng theo đuổi cả tuổi trẻ, để viết những thứ văn chương mà theo anh là “toàn những cái vô vị, nhạt nhẽo, gợi những tình cảm rất nhẹ, rất nông, diễn một vài ý rất thông thường quấy loãng trong một thứ văn bằng phẳng và quá ư dễ dãi”.
Hộ thấy xấu hổ đỏ cả mặt khi đọc lại những đoạn văn ấy, Hộ tự thấy sao mình khốn nạn quá, bất lương quá, sự cậu thả trong văn chương khiến Hộ thấy mình thật đê tiện. Suốt mấy năm trời Hộ không có một tác phẩm nào ra hồn, anh tự thấy mình thật thừa thãi trong giới văn chương nơi mà không cần “những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho” mà chỉ dung nạp những kẻ biết tìm tòi ra cái mới. Hộ nghĩ thế thế và thấy sao đau đớn quá, những suy nghĩ tự trách cứ mãi quẩn quanh trong cái đầu óc của một người đàn ông khắc khổ vì phải lo cơm áo gạo tiền và ti tỉ những thứ khác cho vợ con vừa phải vật lộn với nỗi đau trái lương tâm nghề nghiệp. Nhưng Hộ có thể quay lại với hoài bão của mình mà bỏ vợ con nheo nhóc được hay sao?
Lương tâm và trách nhiệm của một người chồng người cha không cho phép anh làm như vậy, Hộ tự an ủi mình bằng suy nghĩ cố gắng làm vài ba năm kiếm tiền cho đủ vốn để Từ buôn bán nhỏ, rồi anh sẽ rảnh rỗi để thực hiện tiếp ước mơ văn chương một cách tử tế nhất. Nhưng cuộc sống luôn nghiệt ngã như vậy khi mà những đứa con của hai vợ chồng cứ lần lượt ra đời, chúng cứ liên tục quấy khóc, bệnh vặt liên miên, khiến Từ gần như không còn đủ sức để lo thêm việc nào nữa. Nhà cửa ồn ào, khiến Hộ không thể tập trung mà viết một thứ nào cho ra hồn, đã nhiều lúc Hộ vì thấy bực dọc và uất ức trong lòng mà “đang ngồi bỗng đứng phắt lên, mắt chan chứa nước, mặt hầm hầm, vùng vằng đi ra phố, vừa đi vừa nuốt nghẹn”. Hộ ban đầu chỉ đi tìm mấy người bạn bàn về văn chương, uống đôi cốc bia cốc chanh giải khát, rồi đến khi đã vơi hết nhọc nhằn, khó chịu Hộ lại về nhà trong nỗi buồn miên man.
Nhưng dần dà Hộ đã thay đổi, Hộ đi ra ngoài và về nhà trong cái say mèm chẳng biết trời trăng rồi đổ ập xuống giường thiếp đi, Từ ở nhà đợi chồng phải rón rén lừa con ngủ mới dám thay áo quần và đắp chăn, kê gối cho chồng. Đấy là những hôm Hộ đã ngủ, còn có những buổi chẳng hiểu cớ sự gì, Hộ cũng về nhà trong men say rồi nhìn gườm gườm nhìn vợ, nói những lời như dọa trẻ con, Từ không dám nói lời nào, bởi cô nghĩ âu tất cả cũng do mình. Hộ dọa đuổi, dọa giết, chắc có lẽ vì túng quẫn và đau khổ quá mà Từ đã thốt ra những lời như vậy, đọc vào đôi khi ta cảm thấy đó không phải là lời thật lòng của Hộ, phải chăng Hộ chỉ đang đùa, đùa cho vơi bớt cái khổ tâm sầu não của anh, bởi ngữ điệu của câu nói trong lúc say khướt ấy chẳng mang tính điên cuồng nào cả, tưởng như Hộ chỉ đang dọa nạt mấy đứa con nít xíu xiu chưa biết gì.
Thế nhưng lúc tỉnh cơn say Hộ lại trở về là người cha người chồng mẫu mực, thương yêu vợ con như chưa từng có những lời nói hôm qua, riết rồi cũng thành quen Từ không giận nổi nữa. Bởi chính Từ cũng tự nghĩ rằng bi kịch của Hộ chính là do Từ mang đến, nhiều lần Từ muốn bồng con đi thật xa, có lẽ thế thì Hộ sẽ hết khổ, sẽ trở lại là chàng trai tươi sáng năm nào, chứ không phải gã đàn ông khắc khổ, rượu chè như bây giờ. Nhưng cái thứ tình cảm mềm yếu trong Từ đã giữ chân không cho Từ đi lấy nửa bước và Từ lại tiếp tục ở lại ngoan ngoãn chăm sóc chồng con bằng một tình yêu và sự hi sinh trung thành nhất. Từ nhớ đến lúc Hộ hôn hít, bế bồng các con, lúc Hộ xanh mặt thức đêm chăm sóc mình ốm bệnh, Từ nhận ra cả hai vợ chồng đều yêu và cần nhau đến mức nào, như vậy Từ càng không thể bỏ đi được, Từ sẽ ở lại đến tận cùng với chồng với con, đói rách cũng chẳng sao chỉ cần được ở bên nhau.
Câu chuyện lại tiếp tục tiến vào cái vòng luẩn quẩn của nó khi Từ nhắc đến tiền nhà, Hộ lại tỏ ra khó chịu, bởi biết bao nhiêu thứ cần đến tiền, mà tiền thì đã hết từ hôm mồng 10 đầu tháng. Hộ ân hận vì mình đã tiêu pha quá trớn để vợ con phải nheo nhóc, thậm chí đói, thế nên anh quyết tâm hôm nay lấy được tiền lương thì sẽ về thẳng nhà, ăn cơm với vợ con, mua thêm chút đồ ăn nữa và cứ thế Hộ nằng nặc đòi vợ phải đợi mình về ăn cơm. Thế rồi mọi chuyện lại chẳng được như Hộ nghĩ anh lại tiếp tục lao vào cuộc nhậu với bạn bè của mình, quên béng đi rằng vợ con anh đang háo hức chờ cha về trong mỏi mòn. Sáng hôm sau Hộ thức dậy tại nhà, anh giật bắn mình dáo dác đi tìm vợ, Hộ sợ Từ bỏ đi mất, bởi hình như anh lờ mờ nhớ ra hôm qua mình đã đánh và đuổi cả Từ đi nữa.
Thật may Từ vẫn ở nhà, ôm con thiếp đi trên chiếc võng, lúc này Hộ ân hận biết bao nhiêu, sao anh lại có thể làm như thế với người vợ tào khang chân yếu tay mềm, người chưa từng cãi anh một lời mà chỉ biết vâng dạ chăm sóc cho cha con anh ngày này qua tháng khác. Hộ khóc, khóc vì bất lực trước cuộc sống, khóc vì thương vợ cũng khóc cho cái bi kịch trái ngang của cuộc đời mình, anh đã làm khổ mình cũng làm khổ cả vợ con bởi cái bản ngã cái tự trách đầy tiếc nuối về hoài bão xưa kia. Thế mới nói co người chỉ thực sự làm tốt khi họ hoàn toàn chú tâm vào chúng, còn Hộ anh vừa muốn sống cho lý tưởng vừa muốn sống cho thực tế (kiếm tiền), mà hai thứ ấy nào có dung hòa được với nhau. Cuối bài lời ru con của Từ đã dấy lên nhiều suy nghĩ: “Ai làm cho gió lên giời,Cho mưa xuống đất, cho người biệt li;Ai làm cho Nam, Bắc phân kỳ,Cho hai hàng lệ đầm đìa tấm thân…”
Cuộc sống đau khổ của vợ chồng Hộ có lẽ nguồn cơn to lớn nhất ấy là bối cảnh đất nước những năm trước cách mạng, cái xã hội ấy đã kìm kẹp người nông dân và người trí thức khiến họ phải sống trong kiếp vật vờ, đầy bi kịch, tiêu biểu là nhân vật Hộ, một trí thức với nhiều hoài bão ước mơ, nhưng cuối cùng vì sự khốn khó xuất phát từ tấm lòng thương người của mình mà phải đau khổ.
Truyện ngắn “Đời thừa” là một trong những tác phẩm xuất sắc của Nam Cao về đề tài hiện thực xã hội trước Cách mạng tháng 8, năm 1945, ở đó ta thấy được một nghịch lý rất lạ, lòng nhân đạo của nhân vật cũng chính là sợi dây dẫn đến bi kịch cho chính cuộc đời họ, rồi từ trong cái bi kịch ấy ta lại thấy hiện lên những thứ tình cảm khác, ấy là tình vợ chồng, tình cha con, tình người. Và có lẽ ấn tượng nhất ấy là tấm lòng yêu văn chương sâu sắc đến day dứt của nhân vật Hộ, nhấn mạnh một quan điểm nghệ thuật rất tâm đắc của Nam Cao: Văn chương không được phép cẩu thả, cẩu thả là vô lương tâm, là đê tiện.
Trên đây là Tổng hợp các bài văn nghị luận về tác phẩm Đời Thừa – Nam Cao do dean2020.edu.vn đã tổng hợp và chia sẻ đến các bạn. Hi vọng các bạn sẽ chọn cho mình một bài văn nghị luận thích hợp để phân tích tác phẩm Đời Thừa – Nam Cao hay nhé! Chúc các bạn học tốt!