Tổng hợp các bài văn nghị luận về tác phẩm Hồi Trống Cổ Thành – La Quán Trung

La Quán Trung (1330-1400) lớn lên vào cuối thời Nguyên đầu thời Minh, là người chuyên sưu tầm và biên soạn dã sử và cũng là người đầu tiên có đóng góp xuất sắc cho trường phái tiểu thuyết lịch sử thời Minh – Thanh ở Trung Quốc. La Quán Trung căn cứ vào lịch sử, truyện kịch dân gian để viết “Tam quốc diễn nghĩa” ra đời vào đầu thời Minh (1368 – 1644), gồm 120 hồi. Đoạn trích “Hồi trống Cổ Thành” thuộc hồi thứ 28 là hồi trống thách thức, minh oan, đoàn tụ và biếu dương lòng anh hùng, trung nghĩa của Trương Phi, Quan Công. Mời các bạn đọc tham khảo một số bài văn phân tích đoạn trích “Hồi trống Cổ Thành- La Quán Trung” mà chúng tôi đã tổng hợp trong bài viết dưới đây

.

Hồi Trống Cổ Thành – La Quán Trung

Bài văn phân tích tác phẩm “Hồi trống Cổ Thành” số 1

Hồi trống Cổ Thành là tên do người biên soạn đặt cho đoạn trích ngắn ở giữa hồi 28, có hai câu thơ làm tiêu đề:

Chém Sái Dương anh em hoà giải,

Hồi Cổ Thành tôi chúa đoàn viên.

Chữ hồi trong câu thơ này có nghĩa là trở về, chứ không phải là hồi trống như trong tên đoạn trích. Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung có nhiều nhân vật, nhưng sinh động nhất, gây ấn tượng sâu sắc nhất cho người đọc là Tào Tháo, Khổng Minh, Quan Công và Trương Phi.

Đoạn trích Hồi trống Cổ Thành rất giàu kịch tính, đậm không khí chiến trận và khí phách anh hùng. Lối kể chuyện của tác giả giản dị, không tô vẽ, không bình phẩm. Linh hồn đoạn trích kết tụ trong hồi trống của Trương Phi. Đó là hồi trống ra quân, cũng là hồi trống thu quân, hồi trống thách thức giải oan và đoàn tụ. Nội dung đoạn trích toát lên hai ý: Tính cách nóng nảy nhưng tuyệt vời trung nghĩa của Trương Phi vá ý nghĩa sâu xa của hồi trống Cổ Thành.

Lúc mới dựng nghiệp, nhà Thục còn yếu. Trong khi đó quân Tào rất mạnh, vì thế nên quân Thục thua liên tiếp. Lưu Bị cùng Đổng Thừa, Vương Tử Phục, Quan Công, Trương Phi bàn mưu kế chống lại Tào Tháo. Bị bại lộ, Tào Tháo giết bọn Đổng Thừa rồi kéo hai mươi vạn quân đánh Lưu Bị. Ba anh em Lưu, Quan, Trương thua trận, mỗi người chạy một ngả. Lưu Bị chạy sang Nhữ Nam ở nhờ Viên Thiệu, Quan Công bị khốn ở Thổ Sơn, Trương Phi tá túc ở Cổ Thành. Trong lúc hoạn nạn, Quan Công theo lời Trương Liêu đưa hai người vợ của Lưu Bị là Cam phu nhân và Mi phu nhân sang ở nhờ Tào Tháo. Tạm hàng Tào Tháo nhưng Quan Công ra điều kiện rằng nếu biết Lưu Bị ở đâu thì sẽ đi tìm ngay.

Biết tin Lưu Bị đang ở trên đất Viên Thiệu, Quan Công đưa hai chị dâu đi tìm. Tào Tháo vì muốn lưu giữ Quan Công để sử dụng sau này nên không cấp giấy qua ải, nhưng cũng không sai tướng đuổi bắt. Các tướng của Tào Tháo không cho Quan Công qua ải nên ông phải mở đường máu mà đi. Quan Công đã phải chém sáu tướng Tào để vượt qua năm cửa ải: Qua ải Đổng Lĩnh chém Khổng Tú. Đến ải Lạc Dương chém Hán Phúc và Mạnh Thẩn. Qua Nghi Thuỷ giết Biện Hỷ. Vượt ải Huỳnh Dương chém Vương Thực. Đến bờ Hoàng Hà giết Tân Kỷ.

Đoạn trích kể về cuộc “đụng độ” đặc biệt do sự hiểu lầm giữa hai anh em kết nghĩa là Quan Công và Trương Phi ở Cổ Thành. Trên đường sang Nhữ Nam tìm Lưu Bị, đến Cổ Thành, Quan Công hỏi thăm được biết Trương Phi đang ở đấy nên xiết bao vui mừng. Trương Phi vốn nghi ngờ Quan Công ăn ở hai lòng nên đã lầm tưởng là Quan Công lừa mình để bắt nộp cho Tào Tháo; vì thế giận dữ không thèm tiếp, lớn tiếng sỉ mắng và dọa đánh. Ngẫu nhiên, lúc đó tướng Tào là Sái Dương dẫn quân ầm ầm kéo đến khiến Trương Phi càng khẳng định thêm nghi ngờ của mình là đúng.

Thanh minh không được, Quan Công hứa sẽ chém đầu tướng Tào để tỏ lòng thành. Trương Phi ra điều kiện sau ba hồi trống, Quan Công phải chém rơi đầu tướng Tào thì mới tin. Nhưng Trương Phi vừa đánh dứt một hồi trống thì đầu Sái Dương đã rơi xuống đất. Trương Phi tạm nguôi giận nhưng chỉ sau khi nghe tên lính hầu của Sái Dương cũng bị Quan Công bắt, kể đầu đuôi mọi chuyện thì chàng mới tin, rỏ nước mắt khóc, thụp lạy Vân Trường. Quan Công vào được Cổ Thành, “cửa ải thứ sáu” và cũng là cửa ải thử thách ghê gớm nhất đối với lòng trung nghĩa.

Trương Phi là con người thẳng như là tên bắn, sáng như tấm gương soi, không chấp nhận sự quanh co, lắt léo. Đối với Trương Phi, đen trắng phải rõ ràng; với kẻ thù thì chỉ có thể nói chuyện bằng gươm giáo. Tính cách Trương Phi vốn dĩ nóng nảy; bộc trực và đơn giản, song để xác định Quan Công trung thành hay phản bội, Trương Phi lại không đơn giản chút nào. Khi nghe tin Quan Công đến, Trương Phi giận dữ mắt trợn tròn xoe, râu hùm vểnh ngược, hò hét như sấm, múa xà mâu chạy lại đâm Quan Công.

Câu hỏi của Quan Công: Hiền đệ cớ sao như thế, há quên nghĩa vườn đào, càng làm cho Trương Phi bừng bừng nổi giận. Ý của Quan Công là muốn nhắc lại việc ba anh em kết nghĩa vườn đào để uốn nắn thái độ quá khích của Trương Phi, không ngờ lại như đổ thêm dầu vào lửa, khiến Trương Phi thêm phẫn nộ. Theo Trương Phi, Quan Công đã ở chung với Tào Tháo một thời gian, lại nhận tước vị Tào Tháo phong cho là phản bội. Đã phản bội mà còn dám động đến chuyện anh em kết nghĩa vườn đào thì lại càng đáng căm thù và phỉ nhổ. Quan Công phản bội thì phải xử đúng như lời thề trước đây: Nếu ai bội nghĩa quên ơn thì trời người cũng giết. Những lời thanh minh giúp cho Quan Công của hai chị dâu và Tôn Càn không làm dịu bớt cơn thịnh nộ của Trương Phi.

– Khoan đã chú Ba, khoan đã! Chớ hấp tấp mà làm càn bây giờ. Chú Hai không biết tin tức mọi người nên phải tạm nương mình bên Tào. Nay đã biết anh nhà ở Nhữ Nam, không ngại hiểm trở, đưa bọn ta đến đây. Chú không được nghĩ lầm như thế!

Mi phu nhân cũng nói:

– Chú Hai trước ở Hứa Đô, thực là bất đắc dĩ.

Phi nói:

– Hai chị bị lừa dối đấy. Trung thần thà chịu chết không chịu nhục. Có lẽ đâu đại trượng phu lại thờ hai chủ?

Quan Công nói:

– Hiền đệ đừng nói vậy, oan uổng quá!

Tôn Càn nói:

– Vân Trường đến đây là cốt để tìm tướng quân.

Trương Phi mắng:

– Mày cũng nói láo, nó đâu có bụng tốt, nó lại đây tất là để bắt ta đó!

Tôn Càn bênh vực Quan Công không được mà Cam phu nhân, Mi phu nhân thanh minh hộ cũng vô hiệu. Với Trương Phi, dẫu có “trăm nghe” cũng không bằng “một thấy”. Trước vấn đề trọng đại, Trương Phi đã hết sức cẩn trọng. Quan Công thanh minh: Nếu ta đến bắt em, tất phải đem theo quản mã chứ? Trương Phi trỏ tay đằng xa, nói: Không phải quân mã là gì kia ? Sự hiểu lầm đã lên tới điểm đỉnh vì một chi tiết ngẫu nhiên: Lúc ấy, tình cờ tướng Tào là Sái Dương dẫn quân truy đuổi Quan Công đang tới gần. Để xoá bỏ mối nghi ngờ của Trương Phi, Quan Công chỉ có cách là chém đầu Sái Dương. Trương Phi ra điều kiện bất khả kháng là sau ba hồi trống, Quan Công phải chém rơi đầu tướng của Tào Tháo. Dứt lời, Trương Phi lập tức đánh trống. Bao nhiêu uất ức, căm giận của Trương Phi như dồn cả vào cánh tay thúc trống.

Chỉ sau một hồi, đầu Sái Dương đã lăn dưới đất. Tưởng thế là mọi việc đã rõ và câu chuyện nhanh chóng đi đến kết thúc, song thực tế lại diễn ra không đơn giản. Mãi đến khi nghe một tên lính bị bắt kể về lí do Sái Dương đến Cổ Thành là để truy đuổi và trị tội Quan Công vì đã giết cháu ngoại hắn; rồi Trương Phi còn hỏi kĩ việc ở Hứa Đô, bấy giờ Phi mới tin anh là thực. Tác giả vẫn chưa để Trương Phi vội biểu lộ rõ thái độ ngay lúc ấy mà cho tới lúc đã vào Cổ Thành, nghe hai chị dâu kể lại những việc Quan Công đã trải qua thì Trương Phi nghe hết chuyện, rỏ nước mắt khóc, thụp lạy Vân Trường. Nóng nảy, thô lỗ và tinh tế, biết điều là hai nét tính cách đối lập song ở đoạn trích này, chúng lại xuất hiện trong cùng một nhân vật Trương Phi.

Trương Phi đã từng dùng mưu mẹo tinh vi để bắt sống Lưu Đại, tướng giỏi của Tào Tháo và bắt sống Nghiêm Nhan ở đất Ba Thục mà không hề làm hao tổn một binh sĩ. Thô trung hữu tế (trong cái thô có cái tinh tế) là biện chứng của cuộc sống. Thô lỗ và tinh tế ở đây đều là biểu hiện lòng trung thành tuyệt đối của Trương Phi. Với Trương Phi, trong tình huống ở Cổ Thành, việc hạ thủ Quan Công có lẽ còn dễ hơn, đơn giản hơn là kiểm nghiệm lòng trung thành của Quan Công. Cái khéo léo của tác giả là đã tạo ra những tình huống để cho cả hai nét trái ngược trong tính cách Trương Phi cùng bộc lộ vừa tự nhiên, vừa sinh động, hấp dẫn. Trong đoạn trích Hồi trống Cổ Thành, Quan Công tỏ ra rất độ lượng và từ tốn, thể hiện qua các chi tiết nổi bật như: ngạc nhiên và hốt hoảng trước cách xử sự của Trương Phi, thái độ nhún mình thanh minh trước người em nóng nảy, cầu cứu hai chị dâu, chấp nhận điều kiện khắc nghiệt để minh oan. Nỗi oan của Quan Công cũng là nỗi oan đặc biệt: làm công việc vì chủ tướng nhưng lại trái với khí phách của kẻ anh hùng, phải tự minh oan bằng tài nghệ và lòng dũng cảm, phi thường.

Để đến được Cổ Thành, Quan Công đã phải vượt qua bao thử thách (năm cửa ải). Những kẻ cản dường trong hành trình gay go này là các tướng địch. Còn tại Cổ Thành, oái oăm thay, kẻ cản đường quyết liệt lại là anh em kết nghĩa! Với tài nghệ xuất sắc chém rơi đầu Sái Dương trong nháy mắt, vấn đề trung thành hay phản bội của Quan Công đã được làm sáng tỏ. Điều thú vị là tác giả đã đặt Quan Công trong quan hệ đối sánh với Trương Phi. Người đời khen Quan Công “tuyệt nghĩa”. Nhưng chữ “nghĩa” cũng có hai mặt trung nghĩa và tín nghĩa. Trung nghĩa là lòng trung thành với vua, với lí tưởng phò nhà Hán. Về mặt này, Quan Công tỏ ra kiên định. Tín nghĩa là lòng tin trong quan hệ giữa bạn bè, anh em, Quan Công cũng rất coi trọng. Đoạn trích có hai nhân vật, nhưng Quan Công chỉ là nhân vật làm nền để tính cách của Trương Phi nổi bật.

Cái tên Hồi trống Cổ Thành rất hay vì trước hết, nó gợi lên không khí chiến trận, ở đây không chi có mâu thuẫn chủ yếu giữa Trương Phi và Quan Công mà còn là mâu thuẫn giữa Quan Công và Sái Dương. Tuy đó chỉ là mâu thuẫn thứ yếu song nó cũng không kém phần căng thẳng và điều đáng nói hơn là nó đã làm cho mâu thuẫn chủ yếu thêm quyết liệt. Ba hồi trống là điều kiện, hơn thế, là vị quan toà nghiêm khắc có quyền phán xét Quan Công trung thành hay phản bội. Điều kiện ba hồi trống Trương Phi đặt ra là vô cùng khắc nghiệt: Quan Công không những chém được đầu Sái Dương mà còn phải chém được trong thời gian ngắn nhất. Mặt khác, Sái Dương là tướng giỏi của Tào Tháo đã từng công khai biểu thị thái độ không phục Quan Công, giờ lại mang quyết tâm trả thù rất cao cho cháu, đó cũng là thách thức to lớn với Quan Công. Nhưng lúc này, khát vọng minh oan đã làm tăng sức mạnh và tài nghệ của Quan Công, cho nên Quan Công đã làm được một việc ngoài sức tưởng tượng của Trương Phi là chém rơi đầu Sái Dương trong nháy mắt.

Bởi vậy, Hồi trống Cổ Thành dù mang đậm không khí trận mạc song rất khác tiếng trống trận thông thường. Nó đã trở thành một biểu tượng cho lòng trung nghĩa, tinh thần dũng cảm và thái độ công minh chính trực. Có thể coi Cổ Thành là cửa ải thử sáu nhưng đó là cửa ải tinh thần, cửa ải khảo nghiệm lòng trung nghĩa. Với tài nghệ của Quan Công, vượt qua năm cửa ải kia còn dễ hơn nhiều. Trong cái thế “tình ngay lí gian” thì việc biện bạch, giải quyết thông suốt những mắc mớ trong tư tưởng, tình cảm của một người nóng nảy như Trương Phi quả là cực khó. Sự hiểu lầm của Trương Phi đối với Quan Công có lí do cụ thể và đã được tháo gỡ. Song điều đáng quý là qua sự cố hiểu lầm ấy, tác giả đã triển khai một xung đột có tính chất nguyên tắc: đó là không thể nào dung hoà giữa ý chí bất khuất và sự đầu hàng, giữa lòng trung thành và sự phản bội.

Đoạn trích Hồi trống Cổ Thành có kết cấu hoàn chỉnh như một vở kịch đầy kịch tính. Đây là một đặc điểm trong nghệ thuật kể chuyện của tiểu thuyết cổ điển mà mỗi chương hồi thường là một câu chuyện có mở đầu và kết thúc. Phần trình bày giới thiệu nhân vật, sự việc, hoàn cảnh. Phần mở mối ở đây là từ sự hiểu lầm dẫn đến mâu thuẫn giữa Trương Phi và Quan Công. Phần phát triển là sự xuất hiện đột ngột của Sái Dương, đánh dấu đỉnh điểm mâu thuẫn. Việc Quan Công chém rơi đầu Sái Dương là điểm mở nút khiến cho mâu thuẫn được giải quyết. Sau khi tác giả giới thiệu nhân vật và sự việc thì mở ra mâu thuẫn, rồi mâu thuẫn được đẩy lên đỉnh điểm và được giải quyết bằng một hành động quyết liệt.

Chỉ qua một đoạn trích ngắn là Hồi trống Cổ Thành nhưng hai nhân vật Quan Công và Trương Phi đã được tác giả khắc hoạ nổi bật vẻ đẹp sáng ngời về lòng tin nghĩa, sự trung thực và chân thành của tình anh em. Là tiểu thuyết khai thác đề tài trận mạc nhưng Tam quốc diễn nghĩa đã để lại rất nhiều bài học về đạo lí, về lối sống, lối ứng xử của người quân tử phương Đông, lấy quy chuẩn luân lí nhân, nghĩa, lễ, trí, tín của Nho giáo làm mực thước.

Bài văn phân tích tác phẩm “Hồi trống Cổ Thành” số 2

Tam quốc diễn nghĩa là một trong những câu chuyện kinh điển về tình nghĩa anh em, quân thần thời phong kiến Trung Hoa và Hồi trống Cổ Thành là một trong những trường đoạn khiến người đọc phải lặng suy ngẫm về tình nghĩa giữa Quan Vũ và Trương Phi.

Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi là ba anh em kết nghĩa nhưng tình sâu hơn bể. Sự khác nhau về tính cách không khiến ba con người này trở nên mâu thuẫn bởi cả ba cùng chung một lí tưởng, một tâm nguyện. Tuy nhiên, do điều kiện khách quan, ba anh em phải tạm li tán. Và chính sự li tán đó dẫn đến sự nghi ngờ trong lòng Trương Phi ở đoạn trích Hồi trống Cổ Thành này. Rời Tào doanh, đến Cổ Thành, biết tin Trương Phi đang trấn giữ ở đây, Quan Công mừng rỡ vô cùng. Trong khi đó Trương Phi chẳng nói chẳng rằng, lập tức mặc áo giáp, vác mâu lên ngựa, dẫn một nghìn quân đi tắt ra cửa bắc. Những tưởng Trương Phi sẽ thi lễ, đón hai anh chị vào thành, vậy mà lại múa xà mâu chạy lại đâm Quan Công.

Thái độ của Trương Phi hoàn toàn đối lập với thái độ của Quan Công và gần như trái ngược với đạo lí làm em. Lẽ nào Trương Phi đã quên nghĩa vườn đào, quên là em mà hành xử với Quan Công như vậy. Nhưng Trương Phi có lí do để hành động như vậy. Nhân vật của La Quán Trung đứng trên hai lập trường (tình nghĩa anh em và nghĩa vua – tôi) để định tội Quan Công. Nhà văn tiếp tục dẫn mâu thuẫn đi xa hơn bằng cách để Trương Phi để xưng mày – tao với Quan Công, luận giải tội trạng của Quan Công “bỏ anh, hàng Tào (…) lừa tao” và kết tội Quan Công bội nghĩa. Quan Công thanh minh, hai phu nhân cũng nói đỡ hộ nhưng Trương Phi vẫn không tin lời anh. Hồi trống Cổ Thành.

Mâu thuẫn truyện được đẩy lên một bậc khi quân của Sái Dương mang cờ Tào đuổi kịp Quan Công. Trương Phi càng có cớ để nghi ngờ lòng dạ Quan Công. Đám quân mã do Sái Dương dẫn đầu khiến Trương Phi nghĩ rằng Vân Trường đưa đến để bắt về qui hàng cho Tào Tháo. Tình thế éo le buộc Vân Trường phải hành động để chứng thực lòng với em: “Hiền đệ hãy khoan, xem ta chém tên tướng ấy, để tỏ lòng thực của ta!”. Đến đây, La Quán Trung quyết định thắt nút truyện, đẩy mâu thuẫn lên đến đỉnh điểm bằng tình tiết Hồi trống Cổ Thành.

Trước đề nghị của Quan Vân Trường, Trương Phi đã ra điều kiện – một điều kiện khắc nghiệt: “Nếu mày quả có lòng thực, ta đánh ba hồi trống, mày phải chém được tên tướng ấy”. Ba hồi trống định mức thời gian để minh chứng cho một tấm lòng, ba hồi trống để giải oan, ba hồi trống để nhận diện nhân cách một con người cũng là ba hồi trống đầy thách thức. Nó quả là quá ngắn ngủi đối với một mạng người. Nó sẽ là một minh chứng nếu quả thật Quan Công do dự, dao động và không có tài nghệ, khí phách.

Nhưng nó cũng là cơ hội để Quan Công minh oan, để hai anh em có thể đoàn tụ lẫn nhau, để lời thề vườn đào năm xưa được giữ trọn. Nếu không có ba hồi trống, mối nghi ngờ trong lòng Trương Phi chỉ có thể giải tỏa bằng bát xà mâu. Và lúc đó, khó có thể hình dung giữa Trương Phi và Quan Công hai anh em ngang tài ngang sức, ai sẽ là người chiến thắng, ai là người phải hi sinh. Tình huống đó bắt buộc Quan Vân Trường phải hành động gấp rút. Chưa dứt một hồi trống, đầu Sái Dương đã rơi xuống đất. Mâu thuẫn được hóa giải, nút thắt đầy kịch tính được tháo bỏ. Chi tiết Trương Phi nghe hết chuyện, rỏ nước mắt khóc, thụp lạy Vân Trường thể hiện tình cảm chân thành của người em cương trực, thẳng thắn, nghĩa dũng đối với người anh em của mình.

Đến cuối đoạn trích Hồi trống Cổ Thành, hồi trống mới xuất hiện nhưng nó đã thực thi nghiệm vụ quan trọng: hóa giải mối nghi ngờ giữa hai anh em Quan Vũ – Trương Phi. Trở lại với diễn biến câu chuyện phía trước, có thể thấy đó là hồi trống ra quân và cũng là hồi trống thu quân, hồi trống thách thức, minh oan và đoàn tụ. Cuộc hội ngộ của hai anh em không có rượu, chỉ có hồi trống trận. Nó cũng chính là một thành công trong nghệ thuật kể chuyện đặc sắc của nhà văn La Quán Trung.

Bài văn phân tích tác phẩm “Hồi trống Cổ Thành” số 3

Có thể nói tiểu thuyết chương hồi là thể loại đạt được nhiều thành tựu nổi bật nhất trong kho tàng văn học thời Minh – Thanh ở Trung Quốc. Một trong những tác phẩm nổi tiếng thời kì này phải kể đến “Tam quốc diễn nghĩa” của La Quán Trung. Ông là tác giả đã có những đóng góp xuất sắc cho thể loại tiểu thuyết lịch sử thời Minh – Thanh và “Tam quốc diễn nghĩa” có ảnh hưởng sâu sắc đến Việt Nam và các nước trên thế giới.

Đây là tác phẩm lớn gồm 120 hồi được ra đời vào đầu thời nhà Minh (1368 – 1644) kể chuyện “cát cứ phân tranh” của ba tập đoàn phong kiến Ngụy – Thục – Ngô với các cuộc chiến tranh diễn ra liên miên, đời sống nhân dân khổ cực trong gần 100 năm của nước Trung Quốc thời cổ. Đoạn trích “Hồi trống Cổ Thành” thuộc hồi 28 của tác phẩm. Nội dung của đoạn trích kể về việc Quan Công đưa hai chị đến Cổ Thành thì biết Trương Phi đang chiếm thành, tạm lấy chốn nương thân liền sai Tôn Càn vào thành báo tin để Trương Phi ra đón hai chị. Gặp lại Trương Phi, Quan Công “mừng rỡ vô cùng” còn Trương Phi do hiểu nhầm Quan Công “hàng Tào Tháo” nên “múa xà mâu chạy lại đâm Quan Công”. Đang trong lúc phân trần sự thật thì quân Tào kéo đến, Quan Công đã lấy đầu của Sái Dương – tên tướng cầm đầu quân Tào. Sau này, Trương Phi mới tin Quan Công và “mời hai chị vào thành”.

Đoạn trích này đã khắc họa thành công hai nhân vật Trương Phi và Quan Công với những đặc điểm tính cách nổi bật. Lưu Bị, Quan Công, Trương Phi là anh em kết nghĩa nơi vườn đào, có lời thề sống chết bên nhau. Họ cùng có chí khôi phục lại nhà Hán, mang lại thái bình cho đất nước và sự ấm no cho nhân dân. Kẻ nào phản bội lại nghĩa tình anh em thì đó là kẻ bất trung, bất nghĩa. Trước đó, họ nương náu dưới trướng Tào Tháo nhưng khi hiểu được bản chất gian hùng của Tào Tháo nên họ đã bỏ đi. Vì phải “hộ tống hai chị dâu nên Quan Công tạm hàng Tào Tháo với điều kiện hàng Hán chứ không hàng Tào”. Tào Tháo tìm mọi cách thu phục Quan Công nhưng khi biết tin Lưu Bị đang ở bên Viên Thiệu thì Phi trả hết con dấu, châu báu, lên đường tìm anh. Đến Cổ Thành thì Quan Công gặp Trương Phi và bị Trương Phi hiểu nhầm.

Với tính tình nóng nảy, cương trực, Trương Phi “mắt trợn tròn xoe, râu hùm vểnh ngược, hò hét như sấm, múa xà mâu chạy lại đâm Quan Công”. Trương Phi “hầm hầm quát” người anh em kết nghĩa vườn đào với mình năm xưa: “Mày đã bội nghĩa, còn mặt nào đến gặp tao nữa?” và quyết liều sống chết với Quan Công.Trương Phi không nghe bất cứ một lời giải thích nào từ Quan Công, Cam phu nhân, Mi phu nhân và Tôn Càn. Trương Phi không xưng hô lễ nghi như “nhị ca” -“tiểu đệ” mà xưng “tao” – “mày”, gọi Quan Công là “nó”, là “thằng phụ nghĩa”. Điều ấy chứng tỏ Trương Phi là con người thẳng thắn, không thể dung tha cho kẻ đã phản bội anh em, làm những điều phi nghĩa. Nhân vật này còn quả quyết khẳng định: “Hai chị bị lừa dối đấy. Trung thần thà chịu chết chứ không chịu nhục. Có lẽ đâu đại trượng phu lại thờ hai chủ?” Đó là câu nói thể hiện lí lẽ, quan điểm và sự dứt khoát của Trương Phi. Bậc bề tôi quyết trung thành với vua, thà chịu chết chứ không chịu đầu hàng kẻ thù.

Mâu thuẫn giữa hai nhân vật được La Quán Trung đẩy lên cao trào khi Trương Phi trông thấy quân Tào kéo đến do Sái Dương dẫn đầu, “vác đao tế ngựa xông đến”. Vốn đã nghi ngờ Quan Công ngay từ đầu nên khi trông thấy cảnh tượng “bụi bay mù trời, một toán quân mã kéo đến, cờ hiệu phấp phới chính là cờ Tào” như đến để bắt mình nên Trương Phi lại càng nổi giận và “múa bát xà mâu hăm hở xông lại đâm Quan Công”. Khi Quan Công tỏ lòng thực của mình bằng cách chém tên tướng Sái Dương thì Trương Phi cũng kiên quyết ra điều kiện: “Nếu mày quả có lòng thực, ta đánh ba hồi trống, mày phải chém được tên tướng ấy”. Đây là cơ hội để Quan Công chứng minh được sự trong sạch và tấm lòng ngay thẳng, trung nghĩa của mình.

Chưa dứt một hồi trống, “đầu Sái Dương đã lăn dưới đất”, “quân Tào chạy tan tác” nhưng kết quả ấy cũng chưa thuyết phục được lòng tin của Trương Phi. Chỉ khi nghe một tên lính kể chuyện Sái Dương nghe tin Quan Công giết cháu ngoại mình bèn “nổi giận đùng đùng” muốn sang Hà Bắc đánh Quan Công nhưng Tào Tháo không cho đi, “nhân sai Nhữ Nam đánh Lưu Tích” không ngờ đi đến Cổ Thành gặp Quan Công thì lúc đó Trương Phi mới “tin anh là thực” và “mời hai chị vào thành”. Hai người chị kể cho Trương Phi nghe những việc mà Quan Công trải qua khiến Trương Phi “rỏ nước mắt khóc, thụp lạy Vân Trường”. Trương Phi tuy tính tình nóng nảy nhưng khi hiểu hết câu chuyện và hoàn cảnh của người anh kết nghĩa thì đã tin tưởng và phục thiện. Đó là một trong những vẻ đẹp nhân cách của nhân vật này.

Bên cạnh đó, tác giả La Quán Trung cũng khắc họa nhân vật Quan Công với tính cách khiêm nhường, trung nghĩa, thủy chung với tình anh em kết nghĩa vườn đào. Khi gặp được Trương Phi, Quan Công “mừng rỡ vô cùng, giao long đao cho Châu Thương cầm, tế ngựa lại đón”. Ngay cả khi bị Trương Phi gọi là “mày”, “thằng”,”nó” nhưng Quan Công vẫn giữ cách xử sự đúng mực, độ lượng khi gọi Trương Phi là “em” và “hiền đệ”. Quan Công hết sức bình tĩnh khi “tránh mũi mâu”, nhờ hai chị làm nhân chứng cho sự trung thành của mình. Không những thế, Quan Công rất coi trọng tình nghĩa anh em đã có và muốn chứng minh điều ấy qua hành động chém Sái Dương “để tỏ lòng thực”. Trước sự nghi ngờ của Trương Phi lớn như vậy nhưng Quan Công vẫn giữ được bình tĩnh và sự từ tốn của bản thân để minh oan.

Hồi trống có ý nghĩa thâu tóm toàn bộ linh hồn, mang lại không khí chiến trận cho đoạn trích. Đó là hồi trống thách thức, minh oan, đoàn tụ của ba anh em của Lưu Bị, Quan Công, Trương Phi. Đoạn trích đã thể hiện được tính cương trực của Trương Phi và lòng trung nghĩa của Quan Công. Kết cấu của “Hồi trống Cổ Thành” như một vở kịch hoàn chỉnh và mang những đặc điểm nghệ thuật tiêu biểu của tiểu thuyết chương hồi. Tác phẩm “Tam quốc diễn nghĩa” không chỉ phơi bày cục diện chính trị Trung Hoa lúc bấy giờ mà còn để lại những bài học về nhân, lễ, nghĩa, trí, tín của Nho giáo, các cách ứng xử của bậc quân tử. Đây cũng là nguyên nhân khiến tác phẩm luôn có sức hấp dẫn đối với các thế hệ bạn đọc.

Bài văn phân tích tác phẩm “Hồi trống Cổ Thành” số 4

“Tam quốc diễn nghĩa” được coi là một trong bốn tác phẩm cổ điển nổi tiếng nhất Trung Quốc. Tác phẩm gây ấn tượng với người đọc bởi “tuyệt nhân” – Lưu Bị, “tuyệt trí” – Khổng Minh, “tuyệt gian” – Tào Tháo. Trích đoạn “Hồi trống Cổ Thành” đặc biệt làm nổi bật vẻ đẹp và phẩm chất tuyệt nghĩa của Trương Phi, đồng thời qua đó, ta cũng thấy ý nghĩa của vấn đề “trung thành hay phản bội” được đặt ra trong đoạn trích.

Đoạn trích Hồi trống Cổ Thành nằm giữa hồi thứ 28 của bộ tiểu thuyết Tam Quốc Diễn Nghĩa, kể về việc Trương Phi gặp lại Quan Công sau bao ngày xa cách nhưng với thái độ tức giận, đòi đâm Vân Trường. Dù Quan Công ra sức giải thích, mọi người can ngăn, Trương Phi lại càng tức giận. Thậm chí, khi quân mã của Tào Tháo đến, lửa giận lại càng bừng lên dữ dội. Chỉ đến khi Quan Công lấy đầu Sái Dương – tướng của Tào Tháo sau một hồi trống thì Trương Phi mới nguôi giận. Khi nghe tên lính kể chuyện thực hư, Trương Phi mới tin, khóc lóc thụp lạy Vân Trường.

Trước tiên, đoạn trích khắc họa cảnh gặp mặt và mâu thuẫn giữa Trương Phi và Quan Công. Lúc này, vẻ đẹp của hai nhân vật thể hiện qua việc nghe tin báo. Quan Công khi nghe tin em thì mừng rỡ vô cùng, nôn nóng muốn gặp mặt và tin tưởng Trương Phi sẽ mừng rỡ đón mình. Qua đó, nhân vật toát lên vẻ đẹp là một người giàu lòng trung nghĩa, giàu tình nghĩa và biết nghĩ cho mọi người. Trái với Quan Công, Trương Phi nghe tin Quan Công đến bèn “chẳng nói chẳng rằng, lập tức mặc áo giáp, vác xà mâu lên ngựa, dẫn một nghìn quân” chạy lại đâm Quan Công. Hành động dứt khoát, quyết liệt ấy khẳng định vẻ đẹp cương trực, khảng khái, trắng đen rõ ràng của Trương Phi.

Vẻ đẹp của hai nhân vật còn toát lên khi cả hai gặp mặt. Quan Công khi mới gặp Trương Phi vội tránh mũi mâu, nhắc lại tình nghĩa vườn đào và ra sức thanh minh cho bản thân mình: “Chuyện này em cũng không biết, ta cũng khó nói. May có hai chị ở đây, em đến mà hỏi”. Lời nói dứt khoát cùng hành động từ tốn, điềm đạm ấy chứng minh Quan Công là một người kiên nhẫn, nhẹ nhàng dù rơi vào tình huống khó xử. Trái lại, Trương Phi khi vừa gặp Quan Công bèn quát mắng, nổi giận đùng đùng cho Quan Công là kẻ bội nghĩa, thậm chí không nghe những lời khuyên can của mọi người, lời thanh minh của Quan Công. Qua đó, vẻ nóng nảy, cương trực của con người tuyệt nghĩa đã được đề cao.

Chi tiết Hồi trống hóa giải mâu thuẫn của cả hai càng tô đậm vẻ đẹp của hai nhân vật. Khi nhìn thấy quân mã của Tào Tháo kéo đến, Quan Công đưa ra gợi ý chém tên tướng Sái Dương để tỏ lòng. Dường như tấm lòng trung nghĩa, trước sau như một ấy nhất quát với tính cách điềm đạm của Quan Công. Trương Phi đưa ra lời thách đố khi đánh ba hồi trống, Quan Công phải chém đầu tên tướng giặc. Trong khi Trương Phi đánh trống, Quan Công múa đao xô lại, hành động dứt khoát chém đầu Sái Dương.

Có thể nói, chi tiết hồi trống Cổ Thành đã giải quyết mâu thuẫn một cách chóng vánh, đồng thời khắc sâu và làm nổi bật tấm lòng trung nghĩa của Quan Công, vẻ thẳng thắn mạnh mẽ của Trương Phi. Hồi trống cũng đem lại không khí chiến trận đặc trưng, mọi mâu thuẫn đều được giải quyết bằng đường gươm, mũi giáo trong không khí thúc giục, binh mã ngập trời. Chi tiết này cũng thể hiện thủ pháp phóng đại, cường điệu đặc trưng trong tiểu thuyết chương hồi. Có thể nói, qua đoạn trích “Hồi trống Cổ Thành”, vẻ đẹp trung nghĩa của Quan Công và vẻ thẳng thắn của Trương Phi được tái hiện một cách chân thực.

Tình anh em với quan niệm tín nghĩa, chân thành cùng lối ứng xử của người quân tử được gửi gắm qua tác phẩm là bài học không bao giờ cũ dành cho mỗi chúng ta.

Bài văn phân tích tác phẩm “Hồi trống Cổ Thành” số 5

Là tác phẩm tiểu thuyết viết theo lối chương hồi, “Tam quốc diễn nghĩa” – một tác phẩm văn học viết về đề tài lịch sử, xã hội Trung Quốc thời kì cát cứ phân tranh, chiến tranh liên miên, người dân trải qua nhiều đau khổ, mọi diễn biến của thời kì biến loạn đó được tác giả La Quán Trung tái hiện lại rõ nét qua tác phẩm giàu giá trị hiện thực. “Hồi trống cổ thành” là một trích đoạn tiêu biểu của tác phẩm “Tam quốc diễn nghĩa”, đoạn trích tái hiện lại rõ nét chân dung của những con người nhân nghĩa Trương Phi, Vân Trường, đó chính là những con người đại diện cho lòng “trung”, cho chữ “nghĩa” trong quan hệ vua tôi, huynh đệ.

Nếu trong nền văn học Việt Nam có tác phẩm chương hồi giàu giá trị lịch sử, giá trị thời đại là “Hoàng Lê nhất thống chí” của các tác giả Ngô Gia Văn Phái thì ở một nền văn học lớn như Trung Hoa cũng không thiếu những tác phẩm lớn của các tác giả tài ba, trong số các tác phẩm lịch sử đó, nổi bật lên hẳng chính là tác phẩm “Tam Quốc diễn nghĩa” của La Quán Trung, cả một giai đoạn dài nhiều thăng trầm, với sự đổi thay của biết bao nhiêu thời đại đều được tái giả khắc họa lại trong tác phẩm của mình. Trở lại với trích đoạn “Hồi trống cổ thành”, như đã nói, tác phẩm này đề cập đến lòng chung nghĩa, tình cảm huynh đệ giữa hai nhân vật chính là Trương Phi và Quan Vân Trường, và đặc biệt, tình cảm ấy còn được đặt trong một tình huống éo le, gây cho các nhân vật nhiều sự đấu tranh, giằng xé để có được quyết định cuối cùng giữa chữ trung và chữ nghĩa.

Theo dõi “Tam quốc diễn nghĩa” nói chung, trích đoạn “Hồi trống cổ thành” nói riêng ta có thể thấy cả Quan Vân Trường và Trương Phi đều là những vị tướng tài giỏi, những người anh hùng đầu đội trời, chân đạp đất. Là những con người tiêu biểu đại diện cho chữ “dũng”. Nói qua như vậy để ta hiểu hơn về tính cách, con người của những nhân vật này, họ là những người thà chết chứ không chịu nhục, thà mất đi mạng sống chứ không chịu phản bội lại chủ. Nhưng ở đây, để thửu thách tấm lòng trung nghĩa của hai nhân vật này, tác giả La Quán Trung đã đặt họ vào một tình huống ngặt nghèo, mà ở đó những phẩm chất, con người thật của mỗi người được bộc lộ một cách rõ nét.

Ba anh em Lưu Bị, Quan Công, Trương Phi ẩn náu dưới trướng của Tào Tháo, biết được Tào Tháo là một con người gian hùng nên họ đã tìm cách bỏ đi. Trên đường trốn chạy, tránh sự truy sát của Tào Tháo thì ba huynh đệ đã mỗi người một ngả. Đây chính là nguyên nhân dẫn đến mọi hiểu lầm sau này của hai huynh đệ Quan Công và Trương Phi. Vì phải dẫn theo hai chị dâu, vốn là hai bà vợ của Lưu Bị nên Quan Công không thể rút chạy an toàn mà bị Tào Tháo vây bắt. Vì biết Quan Công là một người tài hiếm có nên Tào Tháo không những không giết mà còn tìm mọi cách để Quan Công quy phục mình.

Nếu có một mình, thì dù phải hi sinh tính mạng thì Quan Công cũng không chịu hang Tào Tháo, nhưng vì đảm bảo sự an nguy cho hai người chị dâu, cực chẳng đã Quan Công đã phải tạm hang Tào Tháo, dù là tạm hang nhưng Quan Công cũng khẳng định mạnh mẽ, tuyên bố rõ rang việc mình hang ở đây không phải hang Tào Tháo mà là hang vua Hán, vì lúc này vua Hán đang bị Tào Tháo không chế. Quan Công đợi thời cơ, một khi có tin tức của anh mình, tức Lưu Bị thì sẽ lập tức đi ngay. Ta có thể thấy, Quan Công là một con người ngay thẳng, tuyệt đối trung thành với Lưu Bị, vì dù được Tào Tháo tìm mọi cách lấy lòng, “ba ngày một tiệc nhỏ, năm ngày một tiệc lớn, lại ban thưởng chức tước, vàng bạc, mĩ nữ…” nhưng Quan Công cũng không hề đái hoài, không bị tác động dù chỉ một chút “Thân tại Tào doanh, tâm tại Hán”.

Nhân vật Quan Công còn hiện lên là một vị tướng kiêu hùng, dũng mãnh hơn người, vì khi đã nghe ngóng tin tức, xác định được vị trí của huynh đệ thì Quan Công lập tức lên đường, khi ấy các tướng dưới trướng của Tào Tháo ngăn cản thì Quan Công đã vung đao chém luôn sáu tướng, vượt được năm cửa quan để đến Cổ Thành gặp người huynh đệ Trương Phi. Hành động oai dũng ấy tuy đươc miêu tả qua một vài chi tiết ngắn gọn, nhưng ta cũng phải thấy được mức độ hiểm nguy, khó khăn của tình huống này, bởi Quan Công chỉ có một thân một mình, lại phải bảo vệ cho sự an nguy của các chị dâu thì việc chiến thắng tướng của Tào Tháo và qua các cửa quan là một việc hết sức phi thường.

Khi đến được Cổ Thành, Quan Công đã rất vui mừng khi sắp tới sẽ gặp được người em thân thiết Trương Phi, bởi Trương Phi không những trốn chạy thành công mà còn chiếm thành công Cổ Thành, nhưng niềm vui đoàn tụ ấy chưa kịp xảy ra thì một tình huống bất ngờ mà Quan Công không thể lường trước đã xảy ra, Trương Phi không những không chào đón mình bằng cái ôm nồng nhiệt của huynh đệ mà tiếp đón bằng đao, vẻ mặt hung dữ như thể nghênh chiến kẻ thù “Trương Phi mắt trợn tròn xoe, râu hùm vểnh ngược, hò hét như sấm, múa xà mâu chạy lại đâm Quan Công”. Vì không thể lường trước được tình huống này sẽ xảy ra nên Quan Công rất bất ngờ, vội tránh mũi mâu “Hiền đệ cớ sao như thế, há quên nghĩa đào ru?”

Quan Công đã nhắc lại tình nghĩa huynh đệ với Trương Phi và hoài nghi về sự manh động của Trương Phi, ta có thể nhận thấy Quan Công là một con người điềm tĩnh, luôn bình tĩnh giải quyết mọi thứ, dù trong tình cảnh khó khăn, ngặt nghèo nhất. Dù Trương Phi một mực khẳng định Quan Công là kẻ phản bội thì sự điềm đạm trong khí chất đã giữ cho Quan Công sự bình tĩnh trước mọi việc mà rành rọi giải thích đầu đuôi mọi sự hiểu lầm. Và khi Trương Phi vẫn nhất quyết không chịu tin và muốn Quan Công chứng tỏ sự trong sạch bằng cách lấy đầu của tướng giặc qua ba hồi trống, dù khó khăn nhưng vì phẩm tiết ản thân, vì tình huynh đệ thì Quan Công vẫn chấp nhận. Và cuối cùng, sau khi chém chết tướng giặc thì Quan Công đã làm tỏ rạng mối hàm oan của Trương Phi đối với mình, tình huynh đệ gắn kết trở lại.

Nếu Quan Công là một con người điềm tĩnh, biết suy xét, nhận biết tình hình thì Trương Phi lại ngược lại, tuy là một người tướng giỏi nhưng Trương Phi tính tình lại nóng nảy, không nghe những lời giải thích, dù có lí, thuyết phục đến đâu. Vì vậy mà chỉ khi Quan Công giết chết được tên tướng giặc thì Trương Phi mới chấp nhận sự trong sạch của Quan Công, dù trước đó Quan Công có giải thích đến đâu, dù người chị dâu có làm chứng thì Trương Phi cũng một mực không nghe. Tuy nhiên, sự cố chấp này của Trương Phi cũng xuất phát từ chính tấm lòng trung thành với Lưu Bị, vì quá trọng chữ “trung” nên không cho phép sự phản bội, hai lòng làm hoen ố, ảnh hưởng. Ta cũng không thể phủ nhận được sự dũng mãnh, tài ba hơn người của Trương Phi, vì chỉ có dưới trướng khoảng hơn trăm người nhưng Trương Phi đã đoạt được Cổ Thành về tay và làm chủ nơi đây.

Đây không hề là việc đơn giản nếu như không muốn nói đây là một hành động quá sức phi thường. Là người trọng sự trung thành nên dù tình cảm huynh đệ có gắn bó nhưng một khi đã phản bội thì Trương Phi cũng kiên quyết chống lại đến cùng. Hành động ấy, suy nghĩ ấy rất đúng nếu như Quan Công là con người hai mặt thực sự. Nhưng ở đây sự thật không như những phán đoán mơ hồ của Trương Phi nên sự nông nổi, cứng nhắc của anh ta khiến cho hành động nhân vật này trở nên mù quáng. Tuy nhiên, Trương phi cũng là người biết hối lối khi nhận ra những sai lầm của mình, khi iết Quan Công không hề phản bội thì Trương Phi đã tạ lỗi, khóc lóc, quỳ lạy Quan Công để hối lỗi “..nhỏ nước mắt khóc, thụp lạy Vân Trường…”

Như vậy, đoạn trích “Hồi trống cổ thành” đã khắc họa thành công và chân thực hình ảnh của hai người anh hùng trong Tam Quốc chí, là Trương Phi và Quan Công. Tuy có những đối lập về tính cách, một người điềm tĩnh, một người nóng nảy, bộc trực nhưng cả hai đều có điểm chung đó chính là một lòng chung thành, coi trọng tình nghĩa huynh đệ, đều là những tướng lĩnh tài giỏi, dũng mãnh. Và hơn hết, cả hai người anh hùng này đều là đại diện cho chữ “dũng”, là những nhân tố tạo nên sức mạnh cho Lưu Bị.

Bài văn phân tích tác phẩm “Hồi trống Cổ Thành” số 6

Văn học Minh – Thanh là giai đoạn phát triển cuối cùng của văn học cổ điển Trung Quốc. Đây là thời kì nền văn học Trung Quốc khá đa dạng, phong phú và đạt nhiều thành công về mặt nghệ thuật. Trong đó có sự lên ngôi đầy vẻ vang của tiểu thuyết. Tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc là một loại truyện dài, được kể thành chương hồi và theo trật tự trước sau của sự việc. Có thể kể đến những đỉnh cao tiêu biểu đã rất quen thuộc với chúng ta ngày nay như Tây du kí, Thuỷ hử truyện, Tam quốc diễn nghĩa, Hồng lâu mộng…

Trong đó, Tam quốc diễn nghĩa là tác phẩm phản ánh một thời kì dài và đầy biến động của lịch sử Trung Quốc, đó là thời Tam quốc. La Quán Trung viết tác phẩm này dựa trên ba nguồn tư liệu chính là sử liệu (cuốn sử biên niên Tam quốc chí của Trần Thọ đời Tấn và cuốn Tam quốc chí của Bùi Tùng Chi người Nam Bắc triều) ; dã sử, truyền thuyết trong dân gian ; tạp kịch, thoại bản đời Nguyên (cuốn Tam quốc chí bình thoại). Vì thế tác phẩm vừa là một thiên sử kí, vừa là một tác phẩm văn học có giá trị nghệ thuật.

Nội dung của câu chuyện Hồi trống Cổ Thành được tóm tắt trong câu : “Chém Sái Dương anh em hoà giải ; Hồi Cổ Thành tôi chúa đoàn viên”. Đoạn trích này đã thể hiện khá rõ những đặc sắc nghệ thuật trần thuật và nghệ thuật xây dựng nhân vật của Tam quốc diễn nghĩa. Những nét tính cách không thường nổi bật trong tác phẩm của hai nhân vật Quan Công và Trương Phi đã được thể hiện trong đoạn trích. Quan Công vốn rất tự phụ, ít khi nhún nhường ai, nhưng trong trường hợp đặc biệt này, trước cơn giận của Trương Phi, lại rất nhũn nhặn, mềm mỏng. Ở đây hiện lên một Quan Công oai hùng trong tư thế chém đầu tướng giặc nhưng cũng lại là một người anh chín chắn, đúng mực.

Còn Trương Phi tính tình vốn xốc nổi, đơn giản nhưng mối nghi ngờ đã làm cho vị anh hùng này thận trọng hơn. Đó là những nét tính cách khác tạo nên sự đa chiều trong nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật của tác giả. Dù thế nào thì mỗi nhân vật của Tam quốc diễn nghĩa vẫn có một tính cách đặc trưng rất cá tính, không thể trộn lẫn vào đâu được. Đoạn trích này ca ngợi tài năng phi thường của Quan Công, lòng dạ thẳng ngay của Trương Phi và trên hết là lòng trung nghĩa sắt son của cả hai người.

Trương Phi nổi tiếng là người ngay thẳng, nóng nảy và trung thực. Nên mọi lí lẽ với Trương Phi đều không có sức thuyết phục. Người như Trương Phi không bao giờ chấp nhận và cũng khó có thể hiểu được những uẩn khúc trong việc Quan Công về ở với Tào Tháo. Vì thế khi nghe tin Quan Công đến Cổ Thành, Trương Phi đã phản ứng rất quyết liệt : “Phi nghe xong, chẳng nói chẳng rằng, lập tức mặc áo giáp, vác mâu lên ngựa…”. Nhìn thấy Quan Công thì không thèm nói một lời, “Trương Phi mắt trợn tròn xoe, râu hùm vểnh ngược, hò hét như sấm, múa xà mâu chạy lại đâm Quan Công”.

Không có lời bình luận, không miêu tả tâm lí nhân vật nhưng tính nóng nảy và sự tức giận của Trương Phi được thể hiện rất rõ qua hành động, nét mặt, lời nói. Phản ứng của Trương Phi thể hiện tính trung thực, yêu ghét rõ ràng. Lời thanh minh của Quan Công, lời giải thích của Cam phu nhân, Mi phu nhân đều chỉ như dầu đổ vào lửa. Trương Phi không thích nghe lí lẽ, chỉ tin vào những điều mắt trông thấy. Cơn giận đang ngùn ngụt lại trông thấy quân mã kéo tới. Cơn giận của Trương Phi được đẩy lên đỉnh điểm “múa bát xà mâu hăm hở xông lại đâm Quan Công”. Nhân vật của tiểu thuyết cổ điển tuy có tính cách rất rõ nét nhưng vẫn mang tính ước lệ của văn học trung đại. Vì vậy, hành động của nhân vật bao giờ cũng minh hoạ cho tính cách và tư tưởng giai cấp chứ không nhất thiết tuân theo lôgic tâm lí.

Tình nghĩa anh em thuở hàn vi sẽ chẳng có ý nghĩa gì nếu ai đó bị nghi ngờ là phản bội. Chỉ có lí tưởng trung nghĩa là nguyên tắc ứng xử duy nhất. Và mọi mâu thuẫn chỉ được giải quyết trên cơ sở lợi ích cộng đồng. Anh em Quan, Trương đoàn tụ khi đầu Sái Dương rơi xuống đất. Trương Phi thẳng tay đánh trống giục giã Quan Vũ và “rỏ nước mắt thụp lạy Vân Trường” khi nỗi nghi ngờ được giải toả. Việc Trương Phi buộc Quan Công phải chém đầu Sái Dương trong ba hồi trống thể hiện một thái độ dứt khoát và cương quyết, đây cũng là chi tiết đậm màu sắc Tam quốc nhất.

Trương Phi biết rõ tài năng của Quan Công, Quan Công từng chém rơi đầu Hoa Hùng, một viên tướng giỏi và trở về doanh trại mà chén rượu vẫn còn nóng. Việc Quan Công chém được Sái Dương không phải là việc khó nhưng lại rất có ý nghĩa bởi đó là cách duy nhất để Quan Công minh oan. Sự minh oan cũng không mấy khó khăn nhưng nó thể hiện thái độ dứt khoát và trắng đen rõ ràng của Trương Phi. Tác giả đã tạo nên một tình huống rất đặc sắc để vừa ngợi ca tình cảm anh em gắn bó nghĩa tình của Lưu, Quan, Trương vừa bộc lộ rõ tính cách thẳng ngay của Trương Phi và đức độ của Quan Công. Trương Phi và Quan Công là những tướng tài của nhà Thục, tiêu biểu cho nhà Thục. Lưu Bị và nhà Thục là nơi tác giả gửi gắm ước mơ của quần chúng nhân dân về một ông vua hiền, một triều đình chính nghĩa và nhân đạo.

Với lối kể chuyện dân gian, đơn giản hoá tình tiết trong sự đa dạng của sự kiện, Tam quốc diễn nghĩa đã đạt đến chuẩn mực của nghệ thuật kể chuyện. Tam quốc diễn nghĩa là tiểu thuyết cổ điển tiêu biểu ở cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật. Thành công của tác phẩm không chỉ bởi giá trị lớn của tác phẩm về quân sự, lịch sử và về đạo đức mà còn bởi thế giới nhân vật được xây dựng rất thành công. Những nhân vật tiêu biểu của Tam quốc diễn nghĩa đã trở nên rất quen thuộc đối với văn hoá và người đọc phương Đông.

Không đi sâu khai thác tính cách bằng diễn biến tâm lí nhân vật như tiểu thuyết hiện đại mà xây dựng tính cách nhân vật bằng những hành động, cử chỉ có ý nghĩa khái quát, La Quán Trung vẫn xây dựng được một thế giới nhân vật đa dạng có khả năng bao quát và tái hiện sinh động một thời kì lịch sử dài gần một trăm năm với rất nhiều biến động. Qua đây tác giả đã gửi gắm những suy nghĩ và thể hiện cái nhìn của mình về xã hội Minh Thanh. Chỉ với một đoạn trích Hồi trống Cổ Thành nhưng hai nhân vật Quan Công và Trương Phi đã nổi lên vẻ đẹp sáng ngời về lòng nhân nghĩa, sự trung thực và chân thành của tình anh em, tôi chúa.

Là tiểu thuyết khai thác đề tài trận mạc nhưng Tam quốc đã để lại rất nhiều những câu chuyện giáo dục nghĩa tình, giáo dục lối sống, lối ứng xử theo tiêu chuẩn Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín của người quân tử phương Đông.

Bài văn phân tích tác phẩm “Hồi trống Cổ Thành” số 7

Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung là một trong những bộ tiểu thuyết nổi tiếng nhất thời trung đại. Tác phẩm có hàng trăm nhân vật, những mỗi nhân vật luôn được tái hiện với tính cách ngoại hình riêng. Và trong số những nhân vật đó, ta không thể không nhớ đến Trương Phi, bộc trực, thẳng thắn, trượng nghĩa. Vẻ đẹp của nhân vật được thể hiện rõ nhất trong đoạn trích Hồi trống cổ thành.

Tác phẩm ra đời vào đầu thời Minh, kể về một nước chia ba (cát cứ phân tranh) trong gần trăm năm của Trung Quốc thời cổ thời kì thế kỉ II – thế kỉ III. Và nổi lên ba thế lực chính: thế lực của Tào Tháo, thế lực của Vương Quyền, thế lực của Lưu Bị. Tác phẩm phơi bày cục diện chính trị Trung Hoa mà đường nét nổi bật là cát cứ phân tranh, cá lớn nuốt cá bé, chiến tranh liên miên, nhân dân đói khổ, điêu linh. Thể hiện mong muốn của nhân dân: hòa bình, ổn định, thống nhất. Đoạn trích kể về việc Quan Công cùng chị dâu đi tìm anh là Lưu Bị. Trên đường đi gặp lại Trương Phi, Trương Phi cho rằng Quan Công là người phản bội bỏ anh, hàng Tào Tháo, điều đó làm Trương Phi vô cùng giận dữ. Quan Công phải trải qua thử thách để minh chứng sự trong sạch của mình.

Trương Phi vốn mang trong mình tính cách bộc trực, thẳng thắn, không bao giờ có nữa lời nói dối, không mập mờ, úp mở. Quan điểm, lập trường này của Trương Phi được thể hiện rất rõ ràng, rạch ròi qua câu nói với hai chị dâu cũng chính là để nói với Quang Công: “Trung thần thà chết chứ không chịu nhục, có lẽ đâu đại trượng phu lại thờ hai chủ”. Theo quan niệm phong kiến, người trung thần là người chỉ thờ một chủ, sống chết chỉ có một chủ đó mà thôi, còn ai thờ hai chủ, ấy là kẻ phản bội. Từ lập luận đó, Trương Phi suy xét, phán đoán về sự xuất hiện của Quang Công. Quan Công đột triên trở về sau khi đã bội nghĩa vườn đào, bỏ lại anh mà đầu hàng Tào Tháo, vốn là kẻ thù lớn của Lưu Bị. Không chỉ vậy Quan Công khi ở dưới trướng Tào Tháo còn được phong hầu tứ tước, Quan Công đã quy phục Tào Tháo. Bởi vậy sự trở về của Quan Công là để đánh lừa Trương Phi, hòng chiếm Cổ Thành.

Thêm vào đó hành động Trương Phi dẫn theo quân mã càng làm cho Trương Phi tin tưởng vào nhận định của mình hơn. Trước những chứng cớ, suy luận quá rõ ràng, Trương Phi đã ba lần buộc tội Quan Công. Buộc tội Quan Công vong ân, bội nghĩa: “Mày đã bội nghĩa, còn mặt mũi nào đến gặp tao nữa”. Không dừng lại ở đó Trương Phi buộc tội Quan Công là kẻ bất trung: “Mày đã bỏ anh, hàng Tào Tháo, được phong hầu tứ tước nay lại đến lừa tao, tao quyết hầu sống chết với mày”. Và cuối cùng buộc tội Quan Công là kẻ bất nhân: “Mày cũng nói láo, nó đâu có bụng tốt, nó lại đây là để bắt ta đó”. Những lời buộc tội này đều xuất phát từ tính cách của Trương Phi, đây là sự bộc trực, thẳng thắn, chỉ tin những gì mình thấy, đây là tính cách cần có của một trung thần.

Từ những suy luận, những gì mình chứng kiến Trương Phi đã có phản ứng hết sức quyết liệt với Quan Công. Khi Tôn Càn báo tin Quan Công mời Trương Phi ra đón, Trương Phi “chẳng nói chẳng rằng, lập tức mặc áo giáp, vác mâu lên ngựa, dẫn một nghìn quân, lập tức đi tắt ra cửa bắc”, Trương Phi sẵn sàng giao chiến. Khi vừa nhìn thấy Quan Công “mắt trợn tròn xoe, râu hùm vểnh ngược, hò hét như sấm, múa xà mâu, chạy lại đâm Quan Công”. Quan Công cất lời hỏi lí do “Trương Phi hất hàm quát, xưng hô mày tao”, buộc tội Quan Công phản bội. Dù được hai chị dâu cùng Tồn Càn thanh minh cho Quan Công nhưng Trương Phi gạt đi tất cả vẫn luôn giữ vững những lập luận và suy xét của mình. Nhất là khi toán quân mang cờ Tào kéo đến, Trương Phi càng giận dữ hơn và quát: “bây giờ còn trối nữa thôi”. Quân mã mang cờ Tào kéo đến là minh chứng xác thực nhất cho sự phản bội của Quan Công và ngay lập tức Trương Phi lấy bát xà mâu, xông đến đâm Trương Phi.

Trước yêu cầu của Quan Công chứng thực lòng trung thành của mình bằng cách chém đầu tướng Tào, Trương Phi nhận lời, nhưng đưa ra điều kiện thử thách Trương Phi, là phải chém đầu tướng Tào trong ba hồi trống. Đây quả là thử thách rất lớn đối với Quan Công, nó vừa dùng để minh chứng cho sự trong sạch, vừa cho thấy tài năng của Quan Công. Vậy tại sao chỉ là ba hồi trống mà không phải năm hồi trống. Nếu năm hồi trống sẽ là quá dài, không phù hợp với tính cách nóng nẩy, vội vã của Trương Phi, đồng thời năm hồi trống sẽ hạ thấp tài nghệ của Quan Công. Bởi vậy, ba hồi là hợp lí nhất. Đồng thời, khi đưa ra điều kiện là ba hồi trống Trương Phi cũng ngầm thể hiện, gửi gắm niềm hi vọng với Quan Công, rằng Quan Công vẫn như xưa, không phản bội anh và chính mình.

Và Quan Công đã không để Trương Phi phải thất vọng. Trong ba hồi trống đã hạ gục tướng của Tào Tháo, lòng trung của Quan Công đã được chứng thực. Đó cũng là giờ phút bắt đầu quá trình hòa giải. Nếu lúc đầu Trương Phi giận dữ, nóng nảy bao nhiêu thì đến đây lại thận trọng bấy nhiêu, khác hẳn tính cách thông thường của Trương Phi. Trương Phi làm như vậy là bởi rất sợ tình nghĩa anh em bị nên cần phải có thời gian để chứng thực lòng trung của Quan Công.

Thực ra, trước khi Quan Công chém đầu Sái Dương, Trương Phi cũng chứng kiến Quan Công nói chuyện với Sái Dương “giết cháu tao” đã cho thấy Sái Dương không cùng phía với Tào Tháo nhưng vẫn chưa tin hẳn. Quan Công bắt một tên lính cầm cờ hiệu của quân Tào để hỏi chuyện đầu đuôi, khi ấy Phi mới tin anh là thực. Tiếp đó là cuộc trò chuyện của hai chị dâu kể về quá trình vất vả, khó khăn biết bao nguy hiểm mà Quan Công đã phải trải qua, và Trương Phi đã hiểu ra mọi chuyện. Giọt nước mắt của Trương Phi đã cho thấy rõ tấm lòng, tình cảm của Trương Phi với Quan Công.

Nhân vật được xây dựng chủ yếu qua lời đối thoại và hành động. Qua đó bộc lộ rõ suy nghĩ, tính cách nhân vật – Trương Phi một người bộc trực, nóng nảy nhưng cũng hết sức tình nghĩa. Cốt truyện như một màn kịch giàu kịch tính, gây sức hấp dẫn với người đọc. Chi tiết truyện đặc dắc, đặc biệt là chi tiết hồi trống có ý nghĩa thách thức và minh oan. Bằng cốt truyện hấp dẫn, với những chi tiết đặc sắc đoạn trích đã cho thấy tính cách bộc trực, thẳng thắn của Trương Phi – vẻ đẹp tiêu biểu của nhân vật. Đồng thời qua đoạn trích còn ca ngợi tình nghĩa cao đẹp, sâu nặng – một biểu hiện riêng biệt của lòng trung nghĩa.

Trên đây là Tổng hợp các bài văn nghị luận về tác phẩm Hồi Trống Cổ Thành – La Quán Trung do dean2020.edu.vn đã tổng hợp và chia sẻ đến các bạn. Hi vọng các bạn sẽ chọn cho mình một bài văn nghị luận thích hợp để phân tích tác phẩm Hồi Trống Cổ Thành – La Quán Trung hay nhé! Chúc các bạn học tốt!

Related Posts

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *