Tổng hợp các bài văn nghị luận về tác phẩm Một người Hà Nội – Nguyễn Khải

Tác phẩm “Một người Hà Nội” in trong tập truyện ngắn cùng tên của Nguyễn Khải ra đời khi đất nước có nhiều thăng trầm, biến động, những giá trị truyền thống cũng dần phai mờ, đặc biệt là những giá trị của người Hà Nội. Tác phẩm khẳng định sức sống bền bỉ của các giá trị văn hóa mang nét đẹp Hà Nội đồng thời gửi gắm niềm thiết tha gìn giữ các giá trị ấy cho hôm nay và cho cả mai sau. Nhân vật cô Hiền là “Một người Hà Nội” mãi mãi là hạt bụi vàng trong bể vàng trầm tích của văn hóa xứ sở. Mời các bạn tham khảo một số bài văn phân tích tác phẩm Một người Hà Nội – Nguyễn Khải mà chúng tôi đã tổng hợp trong bài viết sau đây.

Một người Hà Nội – Nguyễn Khải

Bài văn phân tích tác phẩm “Một người Hà Nội” số 1

Truyện Một người Hà Nội sáng tác năm 1990, in trong tập truyện Hà Nội trong mắt tôi, nhà xuất bản Hà Nội năm 1995. Đây là một tác phẩm tiêu biểu của nhà văn Nguyễn Khải, thể hiện cái nhìn vô cùng mới mẻ của mình về con người, cuộc sống với một hình thức nghệ thuật in đậm cá tính sáng tạo của nhà văn.

“Một người Hà Nội”, với nhan đề như vậy nhà văn đã mở ra hình tượng trung tâm của tác phẩm là một người Hà Nội mang trong mình vẻ đẹp Hà Nội thuần túy không trộn lẫn. Bên cạnh đó còn mở ra không gian nghê thuật cổ kính, mảnh đất Kinh Kì, nghìn năm văn hiến đã trải qua cùng những thay đổi của thời đại. Cũng từ nhan đề có thể soi sáng được tư tưởng và chủ đề của tác phẩm.

Tác phẩm với nhân vật chính là cô Hiền, người xuất thân từ gia đình Hà Nội giàu có, thân thiện. Ở cô Hiền thấm sâu vẻ đẹp tinh thần, văn hóa cốt cách của một người Hà Nội gốc, tạo nên nơi người đọc về vẻ đẹp ấy sẽ bền vững, không bị nhạt nhòa theo thời gian. Cô cũng là người có tình yêu và gắn bó sâu sắc với mảnh đất Hà Nội. Ngay cả khi nơi đây có đang oằn mình trong bom đạn thì cô vẫn bám trụ lại mảnh đất này bằng tình yêu và niềm tin mãnh liệt vào sự trường tồn của Hà Nội.

Trải qua bao biến cố thăng trầm của đất nước, cô Hiền vẫn giữ được nét đẹp vẹn nguyên trong tâm hồn người Hà Nội không pha trộn. Cô luôn tin tưởng vào tương lai của Hà Nội ngay cả khi sự nghiệt ngã của cuộc sống hiện đại mà người ta dần làm mất đi phần hồn của Hà Nội nhưng cô Hiền vẫn ung dung kể chuyện cây si cổ thụ. Cây si cũng như sự đắp đổi của thời gian, đời người nếu được con người cứu chữa nó sẽ tiếp tục sống lại và hồi sinh.

Tác giả không miêu tả ngoại hình mà chỉ kể về cách sống, cách ứng xử của cô Hiền trong mối quan hệ với người thân trong gia đình, với bạn bè, với thời cuộc… Người kể chuyện không chỉ quan sát mà đôi lúc còn trực tiếp tham gia vào câu chuyện, vì thế mà lời kể, lời bình có vẻ khách quan.

Chín năm kháng chiến chống Pháp, cô Hiền ở lại Hà Nội cùng chồng con. Hòa bình lập lại, đất nước tạm thời chia làm hai miền, cô không di cư vào Nam vì cô nghĩ rằng chồng cô làm nghề dạy học nên chế độ nào cũng cần. Nhưng nguyên nhân chính là cô không thể rời xa Hà Nội. Trong sâu thẳm tâm hồn cô, Hà Nội đã trở thành không gian sống quá quen thuộc nên không thể thiếu: Hà Nội đối với cô Hiền đồng nghĩa với một tình yêu lớn lao, sâu sắc.

Trong tác phẩm, tác giả còn thể hiện vẻ đẹp của Dũng, những thanh niên Hà Nội. Họ tình nguyện đăng kí đi đánh Mỹ với lòng sắt son, tình yêu nước nồng nàn. Trước cái chết của đồng đội, họ không những thấy tiếc thương mà còn hổ thẹn. Tuất là bạn của Dũng nhưng Tuất đã hi sinh ở trận đánh vào Xuân Lộc, trước ngày toàn thắng có mấy ngày.

Anh về đến Hà Nội “là muốn nhào ngay lại nhà ga, đến phòng phát thanh, gặp mẹ Tuất, nói với bà một lời, vì bọn cháu vẫn ở cạnh nhau suốt mười năm. Vậy mà phải mấy ngày sau, cháu mới dám đến. Cháu biết nói thế nào với một bà mẹ có con hi sinh, mà bạn của con mình lại vẫn còn sống đến tận bây giờ, đến hôm nay”.

Thêm một nét đẹp nữa về con người Hà Nội. Họ biết đồng cảm với những người bất hạnh hơn mình. Phần cuối tác phẩm, cô Hiền đã già, Hà Nội đã đổi khác nhưng nét Hà Nội trong cô vẫn còn đó, không bị pha trộn. Chính bởi đó mà tác giả thể hiện sự tiếc nuối nếu nét ấy không còn. “Một người Hà Nội như cô chết đi thật là tiếc, lại một hạt bụi vàng của Hà Nội rơi xuống chìm sâu vào đất cổ”.

Tác giả đã đem tới cho bạn đọc một tác phẩm với giọng văn nhẹ nhàng pha chất triết luận khi khắc khọa hình mẫu cô Hiền. Những người như cô Hiền sẽ soi sáng cho mỗi thế hệ Hà Nội, ấy chính là giá trị nhân văn cao đẹp của cuộc sống và con người mà Nguyễn Khải muốn ngợi ca.

Bài văn phân tích tác phẩm “Một người Hà Nội” số 2

Nguyễn Khải tên đầy đủ là Nguyễn Mạnh Khải, sinh năm 1930 tại Hà Nội, quê gốc ở Nam Định nhưng sinh sống ở nhiều nơi. Năm 1947, ông tham gia tự vệ chiến đấu ở thị xã Hưng Yên, sau đó vào bộ đội, làm y tá. Nguyễn Khải bắt đầu nghề báo, nghề văn từ năm 1950. Trong giai đoạn đầu của sự nghiệp sáng tác, các tác phẩm của ông phản ánh hiện thực ở nông thôn theo xu hướng dị lên trong quá trình xây dựng cuộc sống mới xã hội chủ nghĩa.

Từ sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Nguyễn Khải đặc biệt quan tâm đến những chuyển biến mạnh mẽ của cuộc sống, của tư tưởng, tình cảm con người trước những biến động phức tạp của xã hội hiện đại. Nhà văn nhìn nhận và đánh giá con người trong mối quan hệ đa chiểu phức tạp : để thông qua đó khẳng định và ca ngợi những giá trị cao đẹp của con người và cuộc sống. Năm 2000, nhà văn Nguyễn Khải được Nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học và nghệ thuật, ông mất năm 2008 tại Thành phố Hồ Chí Minh.

Truyện Một người Hà Nội sáng tác năm 1990, in trong tập truyện Hà Nội trong mắt tôi, Nhà xuất bản Hà Nội năm 1995. Qua truyện, nhà văn đã thể hiện cảm nhận của mình về lối sống, về bản lĩnh văn hóa của một người Hà Nội. Từ đó làm nổi bật bản chất tốt đẹp của những con người bình thường mà cuộc đời họ gắn liền với những thăng trầm của lịch sử và quá trình phát triển của đất nước.

Cái nhìn mới về con người và cuộc sống của tác giả thể hiện qua những phát hiện bất ngờ; những suy ngẫm thú vị và sâu sắc về “chất kinh kì ” của một người Hà Nội cụ thể là cô Hiền. Nhân vật chính trong tác phẩm có vẻ đẹp rất đặc trưng của người Hà Nội xưa, vừa khôn ngoan, sắc sảo, vừa đôn hậu, linh hoạt trong cách hiểu người, hiểu đời.

Tóm tắt nội dung tác phẩm như sau: Năm 1955, tác giả từ chiến khu Việt Bắc trở về Hà Nội, có đến thăm cô Hiền – một người họ hàng xa. Kháng chiến chống Pháp, cô Hiền cùng gia đình ở lại Hà Nội. Hòa bình lập lại, đất nước tạm chia làm hai miền, cô Hiền không di cư vào Nam mà vẫn ở lại Hà Nội với tài sản là hai căn nhà, một để ở, một cho thuê.

Trong thời kì đầu xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, cô Hiền khôn ngoan tìm cách thích ứng dần với chế độ mới, lối sống mới. Năm 1965, khi đế quốc Mĩ mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc, cô Hiền vẫn là một “nội tướng” đảm đang việc quản lí gia đình, giáo dục con cái. Dũng, anh con trai cả của cô lên đường nhập ngũ vào Nam chiến đấu. Ba năm sau, anh con trai thứ hai cũng đăng kí nghĩa vụ quân sự nhưng được giữ lại học Đại học vì thi đậu điểm cao.

Năm 1975, miền Nam giải phóng, đất nước thống nhất, anh Dũng trở về Hà Nội. Trong bữa tiệc cuối năm mừng ngày gia đình đoàn tụ, Dũng kể lại câu chuyện cảm động về Tuất, người bạn cùng trung đoàn đã hi sinh ở cửa ngõ Sài Gòn trước ngày chiến thắng và về người mẹ của Tuất đã nén nỗi đau mất con để tiếp tục sống và làm việc.

Ở giai đoạn đầu thời kì đổi mới, Hà Nội còn bộn bề khó khăn, thiếu thốn. Một lần tác giả ra Hà Nội công tác, ghé thăm cô Hiền, thấy cô vẫn là một người Hà Nội của hôm nay, thuần túy Hà Nội, không pha trộn. Cô Hiền kể cho tác giả nghe về sức sống kì lạ của cây si cổ thụ ở đền Ngọc Sơn bị xô ngã sau cơn bão lớn và bày tỏ niềm tin của cô vào cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn.

Mở đầu tác phẩm, với vai trò là người cháu họ, tác giả đã giới thiệu cô Hiền bằng tình cảm quý mến của mình : Chúng tôi gọi là cô, cô Hiền, là chị em đôi con dì ruột với mẹ già tôi. Lối mở đầu giản dị, tự nhiên như vậy làm tăng tính chân thực và sức thuyết phục của truyện.

Tác giả không miêu tả ngoại hình mà chỉ kể về tời nối, cách sống, cách ứng xử của cô Hiền trong mối quan hệ với người thân trong gia đình, với bạn bè, với thời cuộc… Người kể chuyện không chỉ quan sát mà đôi lúc còn trực tiếp tham gia vào câu chuyện, vì thế mà lời kể, lời bình có vẻ khách quan.Chín năm kháng chiến chống Pháp, cô Hiền ở lại Hà Nội cùng chồng con.

Hòa bình lập lại, đất nước tạm thời chia làm hai miền, cô không di cư vào Nam vì cô nghĩ rằng chồng cô làm nghề dạy học nên chế độ nào cũng cắn. Nhưng nguyên nhân chính là cô không thể rời xa Hà Nội. Trong sâu thẳm tâm hồn cô, Hà Nội đã trở thành không gian sống quá quen thuộc nên không thể thiếu: Hà Nội đối với cô Hiền Đồng nghĩa với một tình yêu lớn lao, sâu sắc.

Lúc đầu, trong suy nghĩ của người cháu (tác giả), những người Hà Nội gốc như cô Hiền thật khó gần, bởi căn nhà của cô là một tòa nhà tọa lạc ngay tại một đường phố lớn, hướng nhà nhìn thẳng ra cây si cổ thụ và hậu cung của đền Ngọc Sơn… Trong khi cán bộ và gia đình họ phải ở chen chúc trong những khu nhà tập thể, có khi phải ở ngay dưới gầm cầu thang của nhà bạn bè.

Theo cách đánh giá, nhận xét chung, hồi đó thì: với người vô sản, ở quá rộng là một cái tội. Trang phục của vợ chồng cô Hiền cũng sang trọng quá : Mùa đông ông mặc áo ba-đờ-xuy, đi giày da, bà mặc áo măng-tô cổ lông, đi giày nhung đính hạt cườm.

Cách ăn uống của gia đình cô Hiền và gia đình tác giả cũng thật khác biệt: Lại cái ăn nữa cũng không giống với số đông. Bàn ăn trải khăn trắng, giữa bàn có một lọ hoa nhỏ, bát úp trên đĩa, đũa bọc trong giấy bản và từng người ngồi đúng chỗ đã quy định.

Gia đình tôi thì ăn uống bình dân hơn, vợ chồng con cái ngồi xúm xít quanh cái mâm nhôm, thức ăn có khi múc ra đĩa, có khi cứ để nguyên trong nồi, nồi lớn đặt giữa mâm, nồi nhỏ đặt cạnh mâm, cứ việc sục muôi vào, sục đũa vào, vừa ăn vừa quát con mắng cái, nhồm nhoàm, hả hê, không cần phải khuôn bó theo một quy tắc nào cả. Ăn cốt để sống, để làm việc, hay hớm gì cái thứ lễ nghi rườm rà của… giai cấp tư sản.

Những khác biệt cơ bản ấy xét đến cùng đều xuất phát từ cách nhìn và cách sống của các tầng lớp khác nhau trong xã hội. Sự nghi ngại của người cháu không phải là không có cơ sở: Cô Hiền đích thị là tư sản rồi. Đã là tư sản thì không thể tin cậy được. Việc mình mình biết, việc cô mặc cô, dính líu nhiều có ngày lại rắc rối… Điều đáng nói là cô Hiền vừa tìm cách thích ứng với cuộc sống mới, vừa biết giữ gìn nếp sống và cách nghĩ riêng của mình.

Để làm nổi bật tính cách cô Hiền, nhà văn đã đặt nhân vật này trước những biến cố lớn của đất nước. Những biến động của lịch sử, xã hội thường tác động đến nhận thức và cuộc sống của con người, làm thay đổi tính cách, nhưng nhân vật cô Hiền không phải là sản phẩm của hoàn cảnh. Từ góc nhìn văn hóa, tác giả khám phá và thể hiện tính cách rất đáng trân trọng của nhân vật này.

Cô Hiền là người sắc sảo và tế nhị. Sau khi kháng chiến chống Pháp kết thúc thắng lợi, cán bộ và chiến sĩ ta từ chiến khu Việt Bắc về tiếp quản Thủ đô đều sống trong tâm trạng vui sướng, hồ hởi : Chín năm xa phố phường, xa ánh điện, không được vào rạp xem chiếu bóng hoặc cải lương, không được vào một cái chợ đông người giữa ban ngày, bây giờ mỗi ngày đều ở Hà Nội, mỗi đêm ở Hà Nội, mãi mãi còn ở Hà Nội.

Nhưng tác giả băn khoăn vì sao những người như cô Hiền lại có thái độ khác : Chúng tôi thì vui thế, tại sao những người vốn sống ở Hà Nội chưa thật vui nhỉ? Rồi tự lí giải : Họ đang tìm cách thích ứng với chế độ mới, cách sống, cách làm việc, cả cách nói năng nữa. Để khẳng định những suy nghĩ, phán đoán của mình là đúng, tác giả kể một số câu chuyện nhỏ trong gia đình cô Hiền mà minh đã chứng kiến.

Một lần, tác giả đến chơi, khi nghe đứa con kêu ầm lên: Mẹ ơi! Đồng chí Khải đến thì cô Hiền cau mặt gắt : Phải gọi là anh Khải, hiểu chưa ? Thấy chồng nắm tay đứa cháu, hồn nhiên hỏi: Tại sao chủ nhật trước đồng chí không ra chơi, cả nhà chờ cơm mãi, thì cô thở dài, quay người đi. Bởi cái từ đồng chí hồi ấy là từ của những người cùng lí tưởng, chí hướng dùng để gọi nhau. Cô Hiền thấy chồng mình gọi đứa cháu bằng đồng chí nghe không thuận tai nên đã có phản ứng như vậy.

Khi cháu hỏi thăm về dân tình, thời thế thì cô Hiền thành thực trả lời : Vui hơi nhiều, nói cũng hơi nhiều, phải nghĩ đến làm ăn chứ ? Theo cô, chính phủ can thiệp vào nhiều việc của dân quá, nào phải tập thể dục mỗi sáng, phải sinh hoạt văn nghệ mỗi tối, vợ chồng phải sống ra sao, trai gái phải yêu nhau như thế nào, thậm chí cả tiền công sá cho kẻ ăn người ở. Cô Hiền mạnh dạn, thẳng thắn bày tỏ suy nghĩ, nhận xét của mình trước những hiện tượng chưa hợp lí của cuộc sống mới. Đối với những người giúp việc trong gia đình, cô Hiền coi họ như người nhà.

Trước đây, nhà cô Hiền cũng thuê một anh bếp và một chị vú. Chị vú trông con cho cô từ năm 19 tuổi đến năm 45 tuổi. Trong suốt 26 năm trời, cô Hiền coi anh bếp, chị vú tình nghĩa như người trong họ, đối xử rất tử tế, nên sau này khi đã về quê, vợ chồng họ vẫn qua lại thân tình, ngày giỗ ông chủ và ngày Tết đều đem gạo, đậu xanh, miến và rượu, toàn của nhà làm cả, lên biếu cô và các em.

Với thời cuộc, cô Hiền cũng bộc lộ rõ ràng thái độ của mình. Lúc người cháu (tức tác giả) thân mật và tò mò hỏi cô về thành phần giai cấp, về chuyện tại sao cô không phải học tập cải tạo… thì cô cười rất tươi : Tao chưa đủ tiêu chuẩn rồi thản nhiên nói: Tao có bộ mặt rất tư sản, một cách sống rất tư sản, nhưng lại không bóc lột ai cả thì làm sao thành tư sản được.

Đó là sự thật hiển nhiên. Cô Hiền có cửa hàng làm và bán hoa giấy, cái nghề không giàu nhưng đủ ăn.

Các loại hoa giấy, lẵng hoa bằng tre, bằng mây rất đẹp do tự tay cô làm ra, bán rất đắt nhưng chịu thuế rất nhẹ. Vì thế nên cô không bị gán cho là thành phần tư sản giữa cái thời cải tạo và đấu tranh giai cấp rất quyết liệt. Mấy bà bạn của cô Hiền thắc mắc: Trông bà như tư sản mà không bị học tập cũng lạ nhĩ?thì cô nhẹ nhàng, hỏm hỉnh trà lời: Các bà không biết nhưng Nhà nước lại rất biết.

Trong chuyện làm ăn, cô Hiền cũng tỏ ra khôn hơn các bà bạn và thức thời hơn ông chồng. Trước giải phóng, chồng cô dạy học, nhờ viết sách, in sách mà kiếm được tiền, tậu hai căn nhà, một để ở và một cho thuê. Khi có chính sách cải tạo tư sản năm 1956, cô Hiền đã kịp bán ngôi nhà ở Hàng Bún cho một người bạn mới ở chiến khu về. Một năm sau, có cán bộ tới hỏi về nhà cửa, nhắc tới ngôi nhà ở Hàng Bún, cô Hiền trả lời rất lịch thiệp : Xin mời anh tới ngôi nhà anh vừa nói, hỏi thẳng chủ nhà xem họ trả lời ra sao. Nếu còn thắc mắc xin mời anh trở lại.

Trong chế độ mới, chồng cô Hiền không được phép mở trường tư thục nên định mua một máy in nhỏ để kinh doanh. Cô liền hỏi: ông có đứng máy được không? ông có sắp chữ được không?… ông muốn làm một ông chủ dưới chế độ này à ? Chồng cô tính vốn nhát nên rút lui ngay trước những câu hỏi dồn dập nhưng rất thức thời của vợ.

Những nhận xét của cô Hiền về cuộc sống mới sau hòa bình qua cuộc trò chuyện với người cháu là chân thành và táo bạo: Chế độ này không thích cả nhân làm giàu, chỉ cần họ đủ ăn, thiếu ăn một chút càng hay, thiếu ăn là vinh chứ không là nhục, nên tao cũng chỉ cần đủ ăn. Làm hoa giấy không thể làm giàu được nhưng rất đủ ăn, lại nhàn, lại không phải lo sợ gì.

Tôi hỏi lại: “Còn chú, còn các em ?”. “Chú tuy chưa già nhưng đành để ngồi chơi, các em sẽ đi làm cán bộ, tao sẽ phải nuôi một lũ ăn bám, dầu họ có đủ tài để không phải sống ăn bám”. Cô Hiền khôn ngoan, nhanh chóng thích ứng với cuộc sống mới mà vẫn không đánh mất mình. Là người có đầu óc thực tế, mọi việc cô Hiền đều tính toán trước và cô luôn luôn đúng.

Suy nghĩ của cô Hiền linh hoạt và quyết đoán: Đã tính là làm, đã làm là không thèm để ý đến những đàm tiếu của thiên hạ. Cô Hiền tuyên bố thẳng thừng với đứa cháu: Một đời tao chưa từng bị ai cám dỗ, kể cà chế độ. Những sự kiện lớn trong cuộc đời cổ đã chứng mình rằng điều đó là đúng.

Trước tiên là việc hôn nhân, vốn là một cô gái Hà Nội có nhan sắc, lại con nhà giàu nhưng gần ba chục tuổi cô Hiền mới lấy chồng. Cô không lấy quan mà công chẳng hứa hẹn gì với đám văn nhân tài tử lãng mạn viển vông mà chọn một anh giáo Tiểu học đứng đắn hiền lành để kết bạn trăm năm. Điều ấy khiến cả Hà Nội kinh ngạc vì con gái thường ham sang, ham giàu, còn cô Hiền lại vượt qua thói thường ấy. Sự chọn lựa này cho thấy cô Hiền có thái độ nghiêm túc đối với hôn nhân, đặt trách nhiệm làm vợ, làm mẹ lên trên hết.

Ở cái thời dân ta sống khổ cực nhưng nhà nào cũng thích có nhiều con thì quyết định chấm dứt sinh đẻ vào tuổi bốn mươi của cô Hiền là hết sức đúng đắn. Cô nói với chồng: Từ nay là chấm dứt chuyện sinh đẻ, bốn mươi tuổi rồi, nếu ông và tôi sống đến sáu chục tuổi thì con út đã hai mươi, có thể tự lập được, khỏi phải sống bám vào các anh chị.

Cô Hiền không tin vào câu Trời sinh voi trời sinh cỏ, mà cô cho rằng con cái phải được cha mẹ nuôi dạy chu đáo để sau này có thể sống tự lập. Như vậy, trách nhiệm quan trọng của bậc làm cha mẹ là tạo dựng nhân cách và chuẩn bị cho con cái một tương lai tốt đẹp. Tình yêu thương con của cô Hiền là tình yêu sáng suốt của một người mẹ có tầm nhìn xa trông rộng.Cô Hiền đặc biệt coi trọng vai trò người phụ nữ trong việc quản lí gia đình.

Theo cô thì người vợ không chỉ là nội trợ mà còn là nội tưởng. Cô phê bình người cháu: Mày bắt nạt vợ mày quá, không để nó tự quyết định bất cứ việc gì, vậy là hỏng. Người đàn bà không là nội tưởng thì cái gia đình ấy cũng chẳng ra sao. Quan niệm về bình đẳng nam nữ của cô xuất phát từ thiên chức của phụ nữ và cô hiểu rõ vai trò quan trọng của người vợ, người mẹ trong gia đình.

Cô Hiền quan tâm dạy dỗ con cái từ khi còn nhỏ, từ những chuyện nhỏ. Khi ngồi vào bàn ăn, cô thường chú ý sửa chữa cách ngồi, cách cầm bát đũa, cách múc canh, cả cách nói chuyện trong bữa ăn. Cô không coi những chuyện ấy là vặt vãnh mà là văn hóa sống, văn hóa con người; hơn thế, đấy là văn hóa của người Hà Nội. Cô khuyên con cháu: Chúng mày là người Hà Nội thì cách đi đứng, nói năng phải có chuẩn, không được sống tùy tiện, buông tuồng.

Cách thu xếp việc nhà và dạy bảo con cái của cô Hiền thật khéo léo và chu đáo. Cô quan tâm dạy bảo các con phải biết tự trọng, biết xấu hổ, nghĩa là biết giữ gìn nhân cách. Đây là nền tảng cơ bản để sau này trưởng thành cỏ khả năng tự lập, có đủ ý chí, nghị lực vượt mọi khó khăn, sống có ích cho gia đình, xã hội.

Năm 1965, Hà Nội phát động phong trào tuyển quân vào Nam chiến đấu. Đợt đầu được 660 người, đều là những chàng trai ưu tú của Hà Nội. Dũng, con trai cả của cô Hiền vừa tốt nghiệp trung học liền tình nguyện xin đi đánh Mĩ. Cô Hiền đã chấp nhận cho con ra mặt trận với một tâm trạng giống như bao bà mẹ khác. Khi người cháu hỏi: Cô bằng lòng cho em đi chiến đấu chứ?

Cô đã trả lời: Tao đau đớn mà bằng lòng, vì tao không muốn nó sống bám vào sự hi sinh của bạn bè. Nó dám đi cũng là biết tự trọng. Sao lại không đau đớn khi mà cô hiểu trong chiến tranh, bom đạn không chừa một ai. Nhưng bằng lòng nghĩa là cô chấp nhận sự hi sinh. Việc nước là quan trọng hàng đầu. Lòng yêu nước của cô Hiền cũng giống như lòng yêu nước của người Hà Nội, sâu sắc và kiêu hãnh biết bao !

Suốt ba năm trời, gia đình không hể nhận được tin tức gì của Dũng đang chiến đấu ở chiến trường miền Nam ác liệt. Tuy vậy, khi đứa con trai thứ hai cũng làm đơn xin đi đánh Mĩ thì cô Hiền vẫn hết sức bình tĩnh. Cô giãi bày với người cháu những lời lẽ rất chân thành và cảm động: Tao không khuyến khích, cũng không ngăn cản, ngăn cản tức là bảo nó tìm đường sống để các bạn nó phải chết, cũng là một cách giết chết nó… Tao cũng muốn được sống bình đẳng với các bà mẹ khác, hoặc sống cả hoặc chết cả, vui lẻ thì có hay hớm gì.

Những lời nói xuất phát từ đáy lòng của cô Hiền thể hiện một thái độ sống thật đáng trân trọng. Cái tinh tế trong đời sống tình cảm của cô Hiền chính là thái độ biết chia sẻ trước đau thương, mất mát của bao người mẹ khác. Tác giả phản ánh chân thực và tinh tế những giằng xé âm thầm giữa tình yêu con với tình yêu nước, giữa nỗi lo âu với ý thức về danh dự đã diễn ra trong tâm trạng cô Hiền. Không bà mẹ nào muốn con mình gặp gian khổ, hiểm nguy, nhưng cũng không bà mẹ nào muốn thấy con phải sống đớn hèn, nhục nhã. Cô Hiền hiểu con, tôn trọng danh dự của con nên chấp nhận để con vào Nam chiến đấu.

Qua chi tiết này, tác giả muốn khẳng định cá tính và bàn lĩnh của cô Hiền là không cố tạo uy tín, danh dự bằng những lời nói không thành thực, luôn sống đúng với bản chất của mình, đã sống là phải sống cho tử tế. Ngẫm ra trong đời, để làm một người tử tế là chuyện cực khó. Người ta chỉ giữ được sự tử tế khi có lòng tự trọng, biết phân biệt phải trái và biết hi sinh. Qua đó, ta thấy cái chuẩn trong suy nghĩ của cô Hiền là lòng tự trọng. Lòng tự trọng không cho phép con người sống hèn nhát, ích kỉ, trốn tránh trách nhiệm công dân.

Những phẩm chất mà cô Hiền có được là do tiếp thu từ truyền thống gia đình, từ năng lực tự ý thức, từ kinh nghiệm sống đúc rút trong cuộc sống đời thường của một người vợ, người mẹ. Tình yêu Hà Nội của cô Hiền không hời hợt hay cảm tính mà sâu sắc vì nó gắn với một niềm tin: Hà Nội là chuẩn mực về văn hóa của người Việt Nam. Mỗi công dân Hà Nội phải có ý thức giữ gìn và phát huy chuẩn mực đó.

Cô Hiền đã may mắn hơn bà mẹ của Tuất, may mắn hơn hàng ngàn, hàng vạn bà mẹ khác. Tháng 12 năm 1975, cả dân tộc đang say sưa tận hưởng vinh quang chiến thắng thì Dũng, con trai lớn của cô Hiển trở về. Anh đeo ba lô bước vào đến giữa nhà, cô Hiền hỏi: Anh muốn mua gì? Người con trai gầy ốm, đen đủi, chẳng còn dấu vết gì của một chàng thư sinh Hà Nội, nên người mẹ không sao nhận ra được.

Cô Hiền tổ chức liên hoan mừng con trai chiến thắng trở về. Khách mời là bạn bè thân thiết của vợ chồng cô, gồm các công dân Hà Nội, những tên tuổi đã thành danh ở đất kinh kì Vì thế nên bữa tiệc sang trọng và kiểu cách. Ngày thường, cô Hiền và các bà bạn ăn mặc bình dân: áo bông ngắn, quần thâm, đi dép, đi guốc, vuông khăn len tơi tớp buộc quanh cổ hay bịt đầu, nhưng hôm nay, các vị khách ăn mặc thật đẹp. Mấy ông thì khoác áo ba-đờ-xuy, thắt cà vạt.

Mấy bà tuy tóc đã bạc, hoặc nửa xanh nửa bạc, nhưng khoác áo nhung, áo dạ, đeo ngọc đeo dây đi lại uyển chuyển. Còn cô Hiền thì xuất hiện như diễn viên sân khấu, lược giắt trâm cài hoa hột lấp lánh…

Cô Hiền tâm sự với người cháu về cách sống của mình: Khi sống giữa những người bình dân, tất cả đều có quyền ăn nói thô tục, nhưng sống với những người quý phái mình phải xử sự ra sao ? Xã hội nào cũng có giai tầng thượng lưu của nó để làm chuẩn cho mọi giá trị… Cái chuẩn đó là tinh túy của lối sống, của văn hóa, đạo đức, của văn minh tiến bộ. Cô Hiền đã cố gắng gìn giữ lối sống đó, dù là trong hoàn cảnh khó khăn.

Anh Dũng đã sống đúng với lời mạ dạy về cách sống của người Hà Nội. Nồm 1965, giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mĩ đang diễn ra ác Hệt, vừa tốt nghiệp trung học, Dũng tình nguyện xin vào Nam đánh Mĩ. Anh đã chiến đấu suốt mười năm và may mắn trở về nguyên vẹn. Biết bao đồng dội của anh không có mặt trong ngày toàn thắng. Dũng xúc động kể rằng 660 thanh niên ưu tú của Hà Nội lên đường cùng anh ngày ấy, bây giờ còn lại khoảng chừng trên dưới bốn chục.

Hơn 600 người đã hiến dâng tuổi thanh xuân và sinh mạng của mình cho sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Nhớ về những đồng đội đã hi sinh, Dũng xót xa thương Tuất, người bạn cùng trung đoàn. Ngày vào Nam, lúc tàu qua ga Hàng cỏ, Tuất nghe rõ tiếng mẹ mình phát trên loa của phòng phát thanh nhà ga nhưng anh không thể xuống để từ biệt mẹ. Đấy cũng là những lời cuối cùng của mẹ mà Tuất nghe thấy.

Anh đã hi sinh ở trận đánh vào Xuân Lộc, trước ngày toàn thắng có mấy ngày. Có biết bao bà mẹ Hà Nội vô cùng thương con và đầy nghị lực như mẹ của anh, họ đã nén chịu nỗi đau mất con, tiếp tục sống, tiếp tục dựng xây cuộc sống hòa bình. Gặp lại Dũng, bạn chiến đẩu của con, người bà run bần bật nhưng không khóc. Có thể nói những người mẹ Hà Nội đã góp phần tô đậm cốt cách tinh thần người Hà Nội nói riêng và phẩm chất cao đẹp của con người Việt Nam nói chung.

Tác giả đã tìm hiểu và khai thác một góc khuất của chiến tranh mà trước đó văn học mới chỉ đề cập đến cái hùng tráng mà chưa nói đến bi kịch của từng gia đình, từng số phận con người sau chiến tranh. Vinh quang chiến thắng được tính bằng máu nên không thể vì niềm vui hội ngộ trong cuộc sống hòa bình mà mọi người được phép quên đi.

Cô Hiền quan niệm rằng đã mang danh là người Hà Nội thì phải biết hướng tới cái đẹp. Đó là cái đẹp tỏa chiếu từ chiều sâu văn hóa của đất Thăng Long. Không phải ngẫu nhiên mà mỗi tháng, cô Hiền lại tổ chức mời cơm bạn bè một lần. Trong những dịp ấy, cô và bạn bè được sống lại không khí của một thời vàng son thuở trước. Tuy đã lùi vào dĩ vãng nhưng nó chưa hề mất đi bởi đây là nét đặc trưng của người Hà Nội, là dấu hiệu để phân biệt nếp sống kinh kì với nếp sống tỉnh lẻ.

Ở cuối truyện, tác giả kể về lần từ Thành phố Hồ Chí Minh ra Hà Nội công tác có đến thăm cô Hiền. Nhiều năm trôi qua, gia đình cô Hiền đã thay đổi rất nhiều. Chồng cô đã mất, các con đã lập gia đình riêng. Cô Hiền ngoài bảy mươi tuổi, tuy đã già yếu nhưng vẫn là người của hôm nay, thuần túy Hà Nội, không pha trộn. Phòng khách của gia đình cô Hiền được tác giả miêu tả khá tỉ mỉ: bộ sa lông cổ bằng gỗ gụ, cái sập gụ chân quỳ chạm trổ rất đẹp cùng nhiều đồ gia bảo khác.

Nhìn bà lão tóc bạc đang chăm chú lau cái bát thủy tiên men đỏ trong khung cảnh ngoài trời mưa rốt, tác giả cảm thấy Tết quá, Hà Nội quá, muốn ở thêm ít ngày ăn lại một cái Tết Hà Nội. Cô Hiền đã nâng niu trân trọng những gì tốt đẹp của truyền thống văn hóa Thăng Long. Tính cách của cô Hiền khiến cho tác giả nghĩ về tâm lí sống ồ ạt, xô bồ của đám đông vừa thoát khỏi cái chết, cái khổ. Họ dễ gì có được sự bình tĩnh đế thưởng thức vẻ đẹp trang trọng của một dò hoa thủy tiên.

Cô Hiên than thở về tuổi già hay nghĩ ngợi lan man mọi chuyện y hệt một bà già nhà quê. Cô kể cho người cháu nghe chuyện gió bão làm cây si cổ thụ ở đền Ngọc Sơn bật gốc đổ nghiêng, tán đè lên hậu cung… Lúc đầu, cô nghĩ đó là sự dời đổi, điềm xấu, là sự ra đi của một thời. Nhưng cây si không chết mà được cứu sống, sau một tháng nó lại trổ ra lá non. Từ chuyện ấy, cô Hiền suy ngẫm : Thiên địa tuần hoàn, cái vào ra của tạo vật không thể lường trước được.

Sự khác biệt giữa lối sống của người Hà Nội xưa với người Hà Nội thời hiện đại gợi lên nhiều suy nghĩ khác nhau, thậm chí trái ngược nhau. Có người cho là thời thế đổi thay, đương nhiên con người cũng đổi thay. Có người thất vọng trước thực tại và hoài vọng quá khứ. Tác giả cũng không khỏi lo âu khi thấy Hà Nội đang giàu lên, náo nhiệt hơn trước nhiều nhưng đó chỉ là phần xác.

Ông không tin rằng lớp trẻ đang hăm hở làm giàu còn có ý thức biết giữ gìn, yêu cái đẹp, còn giữ nét thanh lịch, hào hoa của người Hà Nội. Ông tức và đau vì gặp một số người thiếu văn hóa đến mức đáng giận và đáng thương như người mà ông hỏi đường, anh chàng đi xe đạp, cô con gái…

Nhưng cô Hiền không bình luận một lời nào về những nhận xét có phần bực bội của người cháu mà cô lại kể cho người cháu nghe chuyện cây si sống lại nhờ nỗ lực của thành phố. Đấy là bằng chứng cho thấy người Hà Nội hôm nay không phải chỉ coi trọng vật chất mà vẫn còn quan tâm đến đời sống văn hóa, tinh thần. Chuyện cây si cổ thụ ở đền Ngọc Sơn bị bão đánh bật rễ rổi lại hồi sinh gợi nhiều suy nghĩ về lẽ đời, về quy luật bất diệt của sự sống. Sức sống, vẻ đẹp truyền thống văn hóa của người Hà Nội cũng mạnh mẽ, trường tồn như vậy.

Truyện Một người Hà Nội chân thực và sinh động một phần là do tác giả đóng vai người kể chuyện để kể về những nét đặc trưng trong tính cách của người Hà Nội. Chất Hà Nội ẩn chứa trong chiều sâu tâm hồn và tính cách của nhân vật cô Hiền. Từ lời ăn tiếng nói đến nền nếp gia đình, từ cách giáo dục con cháu đến cách thức tổ chức cuộc sống và cách làm cho sang trọng bản thân… Tất cả đều được cô Hiền thu xếp đâu vào đấy.

Cô Hiền luôn cổ ý thức rằng mình là người Hà Nội, từ trong cách ăn mặc cho đến những thú chơi thanh cao đòi hỏi sự kiên trì, tì mẩn như gọt củ thủy tiên sao cho hoa nở đúng giao thừa. Cô Hiền không chỉ là biểu tượng của một thời vàng son đã qua mà còn là hiện thân của truyền thống văn hóa Tràng An vững vàng qua bao biến thiên của lịch sử.

Đặt tên truyện là Một người Hà Nội, có lẽ tác giả muốn tô đậm bản lĩnh, cốt cách của người Hà Nội. Họ luôn có ý thức và tự hào mình là người Hà Nội, đại diện cho cả nước. Ca dao có câu: Chẳng thơm cũng thể hoa nhài – Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An. Chất Hà Nội ở nhân vật cô Hiền biểu lộ qua tính cách lịch lãm, qua thái độ ung dung tự tại, bình tĩnh trước những biến động của thời thế, qua sự khôn ngoan, sâu sắc của trí tuệ và chân thành, nồng hậu của tình cảm. Cô Hiền luôn tin tưởng rằng người Hà Nội thời nào cũng đẹp đẽ và thanh lịch.

Từ nhân vật cô Hiền, người đọc có thể nhận ra nhiều nét đẹp trong lối sống. Nối lối sống là hổi đến quan niệm, nguyên tắc làm cơ sở cho những ứng xử có ý thức của con người. Qua suy nghĩ và hành động của cô Hiền, ta thấy nổi bật lên bản lĩnh một con người luôn luôn dám là mình: là mình khi đề cao lòng tự trọng, là mình trong quan hệ với cộng đồng, đất nước, là mình trong chiêm nghiệm lẽ đời.

Lời bình luận của tác giả ở cuối truyện đã thể hiện tình cảm mến yêu và ngưỡng mộ đối với cô Hiền : Một người như cô phải chết đi thật tiếc, lại một hạt bụi vàng của Hà Nội rơi xuống chìm sâu vào lớp đất cổ. Những hạt bụi vàng lấp lánh đâu đó ở mỗi góc phố Hà Nội hãy mượn gió mà bay lên cho đất kinh kì chói sáng những ánh vàng. Giọng kể của tác giả vừa có niềm lo âu, tiếc nuối lại vừa chan chứa cảm giác tin tưởng, tự hào. Hà Nội đang phát triển, giàu sang và hiện đại, liệu những vẻ đẹp xưa có được bảo tồn?

Qua cách kể chuyện, Nguyễn Khải thường đặt một sự việc dưới nhiều góc nhìn để cho bạn đọc tự rút ra kết luận chứ không áp đặt phải theo cách đánh giá của mình; vì thế mà vừa tạo được quan hệ bình đẳng vừa thể hiện được ý kiến của cá nhân. Giọng kể thay đổi linh hoạt, có đối thoại, có bình luận… Ngôn ngữ giản dị đời thường nhưng giàu ngụ ý và đậm chất trữ tình, triết lí… thể hiện sự quan sát sắc sảo, những suy ngẫm, chiêm nghiệm sâu sắc của một người từng trải nên khá hấp dẫn.

Truyện ngắn Một người Hà Nội và nhân vật cô Hiền để lại nhiều thiện cảm, giúp người đọc hiểu sâu hơn về con người và Thủ đô Hà Nội. Bức chân dung nghệ thuật về một người Hà Nội đã được Nguyễn Khải miêu tả rất thành công bằng vốn sống dày dặn và ngòi bút tinh tế. Phải chăng đây cũng là tình cảm của biết bao con người luôn hướng về Thủ đô – trá

Bài văn phân tích tác phẩm “Một người Hà Nội” số 3

Nguyễn Khải là nhà văn giỏi quan sát chuyện đời, chuyện người, say mê giảng giải, triết lí về mọi sự bằng một tư duy phân tích sắc sảo. Nét độc đáo ở những trang viết của ông là mối quan hệ giữa “chuyên người” với “chuyện mình”, giữa “chuyện đời” với “cái tôi” trải nghiệm chặt chẽ đến mức luôn có xu hướng làm thành một kết cấu trần thuật kép: vừa “phản ánh” vừa “biểu hiện”, vừa nhằm “tác động” vừa “tự nhận thức”, vừa xác định chân lí theo kinh nghiệm cá nhân vừa muốn bàn bạc, đối thoại với những kinh nghiệm khác.

Chính cái tôi tác giá, một cái tôi có khá năng in đậm dấu ấn lên câu chuyện (rất thông minh khi phát hiện và lật xới vấn để, dễ dàng nắm bắt được trạng thái tinh thần thời đại phía sau những ứng xử thường ngày, kể chuyện mà cứ như đang suy nghĩ – luận bàn về câu chuyện với rất nhiều đúc kết khôn ngoan) đã giúp Nguyễn Khải khẳng định vị trí chắc chắn trong tâm trí những bạn đọc yêu thích thứ văn chương giàu chất trí tuệ mà vẫn tựa vững trên tấm lòng trìu mến, thân thiện đối với con người.

Khi tự chia hành trình sáng tác của mình thành hai giai đoạn (trước năm 1978 và từ 1978 trở đi), nhà văn không chỉ muốn nói đến mối quan hệ giữa “con người” và “thời thế”, đến những sự điều chỉnh cần thiết và tất yếu trong thế giới quan của ông ở giai đoạn thứ hai, mà còn gián tiếp triết lí về cái hữu hạn của nghệ thuật trước cái vô hạn của đời sống. Từ đây ông sẽ lấy triết lí này làm nguyên tắc sáng tạo: khước từ cung cách độc thoại của kiểu nhà văn đứng cao hơn bạn đọc để làm một người đề xuất vấn đề, gợi mở đối thoại, chia sẻ cảm xúc và chiêm nghiệm riêng trên tinh thần tôn trọng bạn đọc, trao cho họ quyền phán xét chân lí.

Nếu trước năm 1978, Nguyền Khải chủ yếu theo đuổi cảm hứng chính luận và tập trung vào các vấn đề chính trị – xã hội thì từ năm 1978 về sau, ông dành mối quan tâm chủ yếu cho con người, trước hết là con người cá nhân, có thân phận, danh phận, bổn phận cụ thể đang đan dệt nên cái dòng cháy sôi sục, ồn ào, đầy biến động của cõi nhân gian.

Một người Hà Nội, được hoàn thành ngày 19 – 1 – 1990 (theo ghi chú cuối truyện) là một truyện ngắn nghiêm túc, một cuộc đối thoại cởi mở về con người: Phải chăng bản lĩnh cá nhân, lòng tự trọng của mỗi cá nhân là cốt lõi của nhân cách? Phải chăng sự sâu sắc, thâm trầm, lối sống sang trọng, lịch lãm, có vãn hoá làm nên vẻ đẹp của người Hà Nội?

Được viết trong bối cảnh xã hội Việt Nam trên con đường đổi mới đang biến chuyên mau lẹ, nhiều cuộc “đụng độ” gay gắt giữa hai hệ giá trị cũ – mới xảy ra khi cơ chế kinh tế thị trường phát huy ảnh hướng rộng khắp và quan hộ giao lưu đa chiều đem đến nhiều kinh nghiệm mới mẻ, làm mất giá nhiều kinh nghiệm cũ, Một người Hà Nội là nơi tác giả gửi gắm những điều mình chiêm ngẫm và trăn trở về khả năng bảo tồn những giá trị mà ông tin là tinh tuý nhất của người Việt: Văn hoá Thăng Long, Tràng An.

Liệu mảnh đất ngàn năm văn hiến ấy trước cơn lốc kinh tế thị trường có đánh mất gương mặt tinh thần sang trọng, hào hoa được hun đúc suốt trường kì lịch sử? Ma Văn Kháng khi viết Mùa lá rụng trong vườn (1985) cũng đã ít nhiều chạm đến câu hỏi này. Cùng thời điểm đó, đạo diễn Trần Văn Thuỷ làm bộ phim tài liệu nghệ thuật Hà Nội trong mắt ai đã không giấu cái nhìn phê phán có tính cảnh báo đối với những biểu hiện phi ván hoá cúa thủ đô đang hàng ngày bày ra ngay trước mắt du khách (bộ phim đem lại những tiếp nhận đa chiều).

Một người Hà Nội có thể xem như một tiếng nói đối thoại sắc sảo Nguyễn Khải góp vào mối quan tâm chung của những ai nặng lòng với vẻ đẹp kinh kì (ý hướng đối thoại rất rõ vì nhà văn đã đưa truyện này vào một tập truyện có tên Hà Nội trong mắt tôi, in năm 1995). Người đọc dễ dàng nhận ra Nguyễn Khải dành cho Hà Nội một tình yêu và niềm tự hào sâu sắc đến thế nào và ông cũng coi trọng truyện ngắn Một người Hà Nội thế nào.

Với ông, Hà Nội là “đất kinh kì” (tên một truyện khác trong tập), là nơi hội tụ tinh hoa cả nước: “cái nước sông Hồng, cái gió sông Hồng nó lạ lắm, nó làm ra văn chương Bắc Hà, văn chương Hà Nội”. Mà đâu chỉ văn chương! Chọn một người phụ nữ như nhân vật bà Hiền làm một “lát cắt” nhỏ về Hà Nội, ông muốn kí thác tình yêu bền chặt và sự kì vọng đối với truyền thống văn hoá dân tộc vào những con người luôn luôn biết cách nuôi dưỡng “nếp nhà”.

Chính nhờ họ mà nét đẹp riêng của kinh kì qua bao nhiêu thăng trầm lịch sử vẫn nguyên cốt cách, không gì có thể làm phiêu tán, phôi pha. Tính thời sự của tác phẩm do vậy lại gắn với nhu cầu đối thoại về văn hoá Hà Nội. Người như bà Hiền có phải là hiện thân của cái văn hoá ấy không?

Bà Hiền – điểm tựa chính cho chủ đề tác phẩm, được khắc hoạ nổi bật ở cả hai mặt: tính cách và tư tưởng. Qua điểm nhìn của người kể chuyên xưng “tôi”, tính cách bà Hiền hé lộ dần, một tính cách “động” mà hoá ra ổn định từ đầu đến cuối. Tư duy nghiên cứu đã đảm bảo cho câu chuyên liên tục là những khám phá bất ngờ, “níu chân” bạn đọc. Từng bước hoàn thiện chân dung bà Hiền theo dòng chảy thời gian với bao đổi thay thời cuộc, mỗi lần gặp gỡ nhân vật là thêm một lần người kể chuyện ngỡ ngàng.

Tác phẩm xâu chuỗi bốn tình huống nhận thức, cố ý tạo nên mạch truyện tưởng lan man, ngẫu hứng mà kì thực đan xen uyển chuyển, chặt chẽ, kết dính thành một hành trình nhận thức từ thấp đến cao (tình huống bà Hiền chọn chồng, tình huống bà bị “ngờ” là tư sản, tình huống các con bà tình nguyện đi chiến đấu và tình huống bà phải bày tỏ thái độ trước lối sống thủ đô thời kinh tế thị trường). Cảm quan lịch sử ở đây rất đậm nét.

Mỗi tình huống tương ứng với một hoàn cảnh lịch sử cụ thể, những phát hiện của người kể chuyện về bà Hiền là mạch phát triển tuần tự: từ hoài nghi đến nể phục, từ e ngại đến tin cậy, từ tò mò đến cảm động, trân trọng. Tình huống nhận thức trong Một người Hà Nội khác với trong Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu ở chỗ: không gay cấn, éo le, người kể chuyện không “bừng ngộ” mà “tiệm ngộ” dần dần cùng độ dài thời gian suy tư, chứng nghiệm, giống như một mạch ngầm văn bản.

Có thể xem bà Hiền như chứng nhân cho những biến thiên lịch sử kéo dài từ trước Cách mạng tháng Tám đến thời kì đất nước tưng bừng công cuộc đổi mới. Qua bao biến động dữ dội, Bà Hiền vẫn vững vàng một bản lĩnh sống, đầy trách nhiệm công dãn mà không khi nào đánh mất mình “một đời không để bị ai cám dỗ”.

Bà luôn lấy lòng tự trọng làm nguyên tắc xử thế, lấy văn hoá làm thước đo giá trị sống: “là người Hà Nội thì cách đi đứng, nói năng phải có chuẩn, không được sống luỳ tiện, buông tuồng”. Bà là một “thể phách” và một “tinh anh” của Hà Nội, vượt lên mọi biến suy của thời gian, mọi nông nổi của thói thời thượng để người đọc được nhẹ nhõm mãi niềm tin “Chẳng thơm cũng thể hoa nhài – Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An” (ca dao).

Vẻ đẹp “người Hà Nội” trong bà Hiền thể hiện trước hết ở việc gìn giữ “nếp nhà”. Gốc gác Hà Nội cho bà một căn cốt vững vàng từ nền giáo dục gia đình. Cha mẹ bà đã là bằng chứng cho việc người ta có thể giàu có mà vẫn lương thiện, giàu có mà không “trọc phú”. Cô Hiền thuở trẻ được cha mẹ cho mở phòng tiếp khách văn chương (gọi là xa lông văn học).

Với ai đó thì đây là cơ hội để lấy được tấm chồng danh giá hoặc chỉ đơn giản, có dịp phô diễn sự thức thời (kiểu bà Phó Đoan xây sân quần trong Số đỏ của Vũ Trọng Phụng chẳng hạn), nhưng với cô Hiền và gia đình cô, đấy là nhu cầu giao tiếp để mở mang tầm mắt, để hấp thụ thêm cái tao nhã cứa văn chương nghệ thuật. Thế nên việc cô Hiền chọn chồng đã khiến tất cả người quen biết bất ngờ. Họ bất ngờ vì họ tư duy theo thói thường.

Cô Hiền đứng ngoài cái thói thường ấy. Có lẽ cô nhắm tới một cuộc hôn nhân đảm bảo duy trì truyền thống “giàu có lương thiện” của gia đình và cô phải đóng vai người “nội tướng” để giữ vững “nếp nhà”. Đấy là sự lựa chọn của bản lĩnh cá nhân và của tình yêu Hà Nội sâu xa trong máu thịt.

Những năm Hà Nội bị tạm chiếm, gia đình cô không tản cư (điều này gây ra sự ngờ vực ở không ít người về lập trường yêu nước của cô) nhưng thực chất cô không tản cư chỉ vì “không thể rời xa Hà Nội, không thể sinh cơ lập nghiệp ở vùng đất nào khác”. Một tình yêu kiên định bắt nguồn từ một niềm tin vững chắc vào sự ngay thẳng (nhưng có lẽ cũng vì vậy mà cực đoan nghĩ rằng chỉ ở Hà Nội mới duy trì được lối sống đẹp?)

Khi Hà Nội được giải phóng, khi “văn hoá thời chiến”, “văn hoá bình dân” lên ngôi, bà Hiền càng có ý thức nuôi dưỡng dưới mái nhà mình nét thanh lịch vốn có, từ cách ăn, cách mặc đến cách xưng hô. Theo bà, đấy cũng là văn hoá, bà muốn các con bà nhận ra “văn – hoá – người” ngay từ những chuyện nhỏ nhặt, thường tình nhất: “Tao chỉ dạy chúng nó biết tự trọng, biết xấu hổ, còn sau này muốn sống ra sao là tuỳ”.

Bà không uốn mình theo lối ứng xử dễ dãi của số đông. Cái sâu sắc ở người phụ nữ, người mẹ, người Hà Nội ấy không phải ai cũng nhận ra. Nhân vật “tôi” lúc đầu đã nghĩ bà “đích thị là tư sản” nên bảo vợ con “tránh xa” để khỏi liên luỵ, rồi sau đó lại cho bà là kẻ thủ cựu, cố chấp, không hợp thời. Có lẽ mãi sau này, khi gặp những kẻ không còn khả năng “biết xấu hổ”, không còn lòng tự trọng mà chỉ còn sự trăng tráo thô bỉ, “tôi” mới thật hiểu trí lự của bà Hiền.

Có một người mẹ như thế, tất sẽ có những người con “không sống bám vào sự hi sinh của bạn bè”, tình nguyện đăng kí xin đi đánh Mĩ. Trong bữa tiệc gia đinh mừng ngày Dũng trở về từ chiến trường miền Nam, người – con – trai – bà – Hiền đã nói rất ít về những chuyện vui, những chiến công:

“Anh nói rằng trong nửa năm nay, anh không ngớt nghĩ về những người từ Hà Nội ra đi cách đây đúng mười năm. Sáu trăm sáu mươi người. Bây giờ còn lại khoảng trên dưới bốn chục” (Hà Nội của anh đã không tiếc máu xương cho Tổ quốc hoà bình, thống nhất). Rồi anh kể về tình yêu mẹ của người đồng đội tên là Tuất, về sự can đảm phi thường của mẹ Tuất lúc anh đến báo tin Tuất đã hi sinh.

Niềm vui được sống trở về không làm chàng trai còn rất trẻ ấy quên chia sẻ nỗi đau của người khác. “Chất Hà Nội” từ thế hệ người mẹ như bà Hiền, như mẹ Tuất đang được chuyển giao thật tự nhiên sang thế hệ những người con như Dũng, Tuất. (Đối diện với họ, nhân vật tôi phải giật mình bởi những nhận xét ồn ào, vội vã: “tôi đã nói điều gì thất thố?”).

Để có thể gìn giữ nghiêm cẩn nề nếp gia phong, người phụ nữ đương nhiên phải đóng vai trò “nội tướng” (tục ngữ có câu “Đàn ông xây nhà, đàn bà xây tổ ấm”). Bà Hiền thực hiện tư tưởng nam nữ bình quyền theo cách riêng: dứt khoát mà vẫn thừa tinh tế. Bà chủ động chấm dứt sinh đẻ với nhận thức thật đúng đắn: sinh con nghĩa là phải nuôi dạy con nên người, phải chuẩn bị chu đáo cho mỗi đứa con có khả năng sống tự lập “khỏi phải sống bám vào anh chị” (lại vẫn lấy nguyên tắc tự trọng làm chuẩn).

Bà chê trách người cháu: “Mày bắt nạt vợ mày quá, không để nó tự quyết định bất cứ việc gì, vậy là hỏng”. Bà điều hành gia đình bằng những phép tính khôn ngoan, nhìn xa trông rộng “và luôn tính đúng vì không có lòng tự ái, sự ganh đua, thói thời thượng chen vô. Không có sự lãng mạn hay mơ mộng vớ vẩn. Đã tính là làm, đã làm là không thèm để ý đến những đàm tiếu của thiên hạ”. Như vậy chồng và con bà không nể trọng sao được?

Có một chi tiết nhỏ tưởng bình thường mà thật đắt giá: thấy cậu con trai xưng hô không hợp với quan hệ gia đình (gọi anh là đồng chí), bà “cau mặt gắt” nhưng khi ông chồng cũng phạm chính lỗi đó, bà chí “thở dài, quay người đi”. Một người vợ biết tôn trọng chồng là biết nhượng bộ, nhường nhịn đúng lúc. Nghiêm khắc, kĩ lưỡng uốn nắn con cái từng li từng tí, nhưng bà bao giờ cũng hiểu con và luôn biết dành cho chúng quyền tự quyết định. Bà đảm đang, tháo vát mà không ích kỉ lạnh lùng. Tình nghĩa thuỷ chung của vợ chồng chị vú em đối với gia đình bà nói lên điều đó.

Nhưng một người “nội tướng” mẫu mực chúng ta có thể gặp ở nhiều nơi. Cái làm nên tính cách riêng của bà Hiền, khiến bà – một phụ nữ bình thường trong hàng triệu phụ nữ Việt Nam – trở nên cá biệt, phi thường chính là bản lĩnh cá nhân, sự lịch lãm và lối sống sang trọng. Dù có lúc bị ngờ vực, bị soi xét bằng cái nhìn định kiến, bao giờ bà Hiền cũng vẫn là mình – một cái tôi khôn ngoan, giàu tự trọng, biết người biết ta. Thuở trẻ trung, nhan sắc hơn người, bố mẹ lại giàu có, cô Hiền đã không buông mình cho thói hợm hĩnh, đua đòi ăn chơi hưởng lạc như vô số kẻ tầm thường khác.

Sau này người phụ nữ ấy sẽ tạo lập tổ ấm của mình bằng chính bàn tay tài hoa, chăm chỉ và cái đầu giỏi tính toán, cho nên gia đình bà lúc nào cũng giữ được phong cách sống đàng hoàng, ấm áp. Bà “có bộ mặt rất tư sản, một cách sống rất tư sản, nhưng lại không bóc lột ai cả” (giữa những cái nhìn kì thị với sự giàu sang cực đoan đến mức cháu cũng nghi ngại cô, thì phải có bản lĩnh lớn lắm mới có thể ung dung mà sống như bà Hiền).

Không bao giờ xu thời, nhưng cũng không quay lưng với thời cuộc, bà tự giác điều chỉnh công việc làm ăn mỗi khi cơ chế thay đổi. Tỉnh táo và công bằng, bà phê phán sự lạc quan tự mãn thái quá của nhiều người trong những ngày đất nước mới độc lập: “Vui hơi nhiều, nói cũng hơi nhiều, phải nghĩ đến làm ăn chứ!” (có phải lại thêm một cái giật mình tự phản tính của tác giả?).

Bà không tán thành quan điểm “không khuyến khích cá nhân làm giàu” của chế độ mới nhưng không phản kháng mà cố gắng thu xếp sao cho gia đinh mình vừa không vi phạm luật pháp vừa không đánh mất truyền thống riêng. Một câu nói nhẹ nhàng giải thích việc bà không bị “học tập cải tạo” cho thấy bà rất công tâm: “các bà không biết nhưng Nhà nước lại rất biết”. Con người ấy luôn độc lập trong nhìn nhận đánh giá và rất ít vướng vào định kiến.

Thông minh, thức thời, tháo vát,… đó là tính cách của bà Hiền trong cuộc sống đời thường. Tính cách ấy rất đáng để nể phục. Nhưng bản lĩnh ứng xử trước thời cuộc (luôn “là mình” mà không thiếu trách nhiệm với cộng đồng, tính toán khôn ngoan mà vẫn đằm thắm một tấm lòng đôn hậu) mới thực sự là những giá trị làm nên nhân cách của bà, làm nên văn hoá sống, làm nên cái đẹp. Khi hàng trăm thanh niên ưu tú của Hà Nội lên đường đánh đế quốc Mĩ, người con trai cả của bà Hiền tình nguyện nhập ngũ, bà không ngăn cản con, cũng không nhân đó mà khoe lòng yêu nước.

Bà trả lời thẳng thắn “tao đau đớn mà bằng lòng”. Trong văn học thời chiến tranh của ta hình như chưa một bà mẹ nào phát biểu thế cả. Nguyễn Khải đã rất sâu sắc để cho nhân vật công khai đối thoại với những quan niệm giản đơn về chủ nghĩa ái quốc. Người đọc nào yêu chuộng sự trung thực sẽ rất cảm động vì tin vào cuộc đấu tranh nội tâm – dù chỉ được hé mở qua một câu nói – chắc chắn nhiều giằng xé mà người mẹ – người công dân như bà Hiền phải trải qua.

Bà mẹ nào có thể vui khi đứa con phải đi vào nơi hiểm nguy, nhưng bà hiểu con “nó dám đi cũng là biết tự trọng”. Bà không che giấu niềm kiêu hãnh: “tao không muốn nó sống bám vào sự hi sinh của bạn bè”. Với việc ra đi của đứa con thứ hai, bà vẫn ứng xử trên nguyên tắc tự trọng và niềm kiêu hãnh như vậy vì theo bà, ngăn cản con là “bảo nó tìm đường sống để các bạn phải chết”, “đấy cũng là cách giết nó”. Bà đặt danh dự cao hơn sự sống, mất danh dự tức là chết về tinh thần, nhân phẩm.

Mang đậm cốt cách Hà Nội, trong sâu thẳm con người bà Hiền là cái tâm linh của Hà Nội. Tâm linh ấy được bồi đắp trên truyền thống của mảnh đất nghìn năm văn hiến. Khi con người tin rằng mình đang giữ gìn một giá trị, thì tự khắc nó tìm được khả năng đề kháng trước mọi biến suy và cám dỗ. Bà Hiền ý thức mình là người Hà Nội nên cái mà bà tha thiết bảo vệ và phát huy là cái chất Hà Nội.

Bà không chỉ dạy dỗ con cái sống có văn hoá mà còn nỗ lực tạo dựng một môi trường văn hoá trong gia đình (mỗi tháng đều tổ chức một bữa ăn bạn bè làm sống dậy những nét sinh hoạt và giao tiếp sang trọng, đẹp đẽ như truyền thống kinh kì). Giữ nếp nhà là cách để giữ nếp người. Sau bao nhiêu biến thiên của lịch sử, giữa thời buổi kinh tế thị trường đầy tâm lí thực dụng mà phòng khách nhà bà Hiền – thế giới riêng của bà – vẫn giữ nguyên phong cách lịch lãm, quý phái của hơn nửa thế kỉ trước với tấm bình phong bằng gỗ chạm, bộ sa lông gụ, sập gụ, tủ chùa, lọ men Thuý hồng, lư hương đời Hán, liễn hấp sâm Giang Tây,…

Những thứ đồ trưng bày đều là cổ vật quý giá, mang trong mình tính trang nghiêm, cổ kính của nhiều tầng văn hoá, biểu hiện cốt cách văn hoá của chủ nhân. Căn phòng khách có thể coi là biểu tượng cho con người có thế giới tâm hồn thanh sạch, luôn bình tâm trước mọi đổi thay. Và con người – chủ nhân của không gian ấy – cũng là một “cổ vật” hay một giá trị không phai nhoà của một thời vàng son.

Hình ảnh bà Hiền đang lau đánh chiếc bát thuỷ tiên tưởng như đơn giản mà chứa đựng tất cả cái không khí Tết Hà Nội đặc trưng, đó sẽ là hình ảnh chắc chắn trong tương lai con người hiện đại phải nặng lòng hoài nhớ khi cái nhịp sống công nghiệp và xu hướng đô thị hoá ào ạt có nguy cơ tước đoạt hết những khoảng không gian yên tĩnh để di dưỡng tinh thần. Nhà văn đã dự cảm trước nguy cơ đó khi nêu câu hỏi: “Dân Hà Nội nhảy tàu lên Lạng Sơn buôn bán đủ thứ mà lại không buôn được vài ngàn củ thuỷ tiên”, “ví thử có thuỷ tiên liệu còn có người biết gọt tỉa thuỷ tiên?”.

Và còn đáng buồn hơn nếu cách sống ồ ạt xô bồ đã khiến con người không còn biết bình tĩnh mà thưởng thức vẻ đẹp trang trọng của một giỏ thuỷ tiên. Phòng khách nhà bà Hiền là thế giới thực nhưng cũng đầy tính tượng trưng. Bà vẫn tỉnh táo, thức thời, có điều bà đã vượt lên trên thói thường nhờ cái tầng văn hoá tâm linh vô hình mà ám ảnh. Mối bận tâm của bà bây giờ có thể chỉ là chuyên cây si cổ thụ ở đền Ngọc Sơn.

Cây si ấy gợi liên tưởng đến sức sống trường tồn của tự nhiên mà cũng là sự hữu hạn của tự nhiên. Chính ý thức con người (việc làm kịp thời của Sở Văn hoá Hà Nội) sẽ khắc phục tính hữu hạn đó. Cây si nối quá khứ với hiện tại, là hoá thân của linh hồn Hà Nội, là niềm tin của người Hà Nội vào những giá trị bất diệt.

Cuộc đời bà Hiền cũng như câu chuyện về cây si đã làm sáng tỏ chân lí mà nhà văn tâm niệm: “nói cho cùng, để sống được hằng ngày, tất nhiên phải nhờ vào những giá trị tức thời. Nhưng sống cho có phẩm hạnh, có cốt cách nhất định phải dựa vào những giá trị bền vững”.

Câu chuyện kết thúc khi những hoài nghi, bất bình của người kể chuyện vể cách ứng xử thô bạo ông gặp trên đường phố Hà Nội đã được hoá giải bởi những chiêm nghiệm của bà cô “ngoài bảy mươi tuổi” mà vẫn “giỏi quá”, “khiêm tốn và rộng lượng quá”. Bước ngoặt nhận thức khiến người kể chuyện, trong niềm hi vọng lạc quan, đã nảy ra một so sánh thật đẹp: “Một người như cô phải chết đi thật tiếc, lại một hạt bụi vàng của Hà Nội rơi xuống chìm sâu vào lớp đất cổ”.

“Hạt bụi vàng” nhỏ bé nhưng là tinh tuý tạo nên ánh vàng “sáng chói” cho đất kinh kì. Nó cũng trở thành biểu tượng cho con ngựời Hà Nội: bình dị mà lớn lao, hữu hạn về thân xác mà vô hạn về tâm hồn. Trong cảm hứng ngợi ca, tự hào, ngòi bút Nguyên Khải không khỏi thoáng gợn chút rưng rưng tiếc nuối (hay một nỗi lo âu vẻ viễn cảnh phôi pha cái đẹp cổ truyền trước dòng chảy cuồn cuộn của dời sống thời kinh tế thị trường), phải chăng vì thế mà ông mơ ước: “Những hạt bụi vàng lấp lánh đâu đó ở mỗi góc phố Hà Nội hãy mượn gió mà bay lên cho đất kinh kì chói sáng những ánh vàng!”.

Một người Hà Nội rất đậm dấu ấn của tư duy tiểu thuyết: cốt truyện được nới lỏng, ít sự kiện, biến cố nhưng được kết cấu thành nhiều tình huống nhận thức. Sau mỗi lần gặp gỡ, người kể chuyện lại có thèm một phát hiện mới, một nhận thức mới về bà Hiền, để cuối cùng người đọc tự hoàn chỉnh chân dung người phụ nữ Hà Nội ấy. Thường xuyên tác giả đặt một sự việc, một vấn đề dưới nhiêu cách nhìn (khi công khai, khi ngầm ẩn), biện pháp đối sánh này là sản phẩm của tư duy dân chủ trong tiểu thuyết, tạo ra quan hệ bình đẳng giữa nhà văn và bạn đọc, đưa đời sống vào nhiều “toạ độ” đánh giá để mời gọi bạn đọc tham gia đối thoại.

Bà Hiền có phải người Hà Nội điển hình không? Cách sống của bà, những ứng xử của bà có gì hạn chế?,… tất cả thực ra vẫn còn là những giả định, hình dung, những câu hỏi ngỏ vì tác giả đã luôn nhấn mạnh vào cái nhìn chủ quan của người kể chuyện. Như vậy, tôn trọng kinh nghiệm cá nhân không có nghĩa người đọc phải coi kinh nghiệm ấy là chân lí.

Truyện không sa vào lí luận nặng nề hay nhàm tẻ mà có sự đan xen giọng điệu khá linh hoạt: đằng sau / ẩn trong giọng của người kể chuyện, thấp thoáng có những giọng khác. Hình tượng người kể chuyên ưa triết lí, suy ngẫm, lại xưng “tôi”, thậm chí tự tiết lộ tên mình là Khải (lời con trai bà Hiền: “Mẹ ơi! Đồng chí Khải đến”), nghĩa là mang rất nhiều chi tiết tiểu sử tác giả, đã gợi cảm giác thân mật và tin cậy, rất thích hợp cho cuộc giao tiếp cởi mở giữa nhà văn với người đọc.

Qua hình tượng người kể chuyện, hiển hiện một Nguyễn Khải có nhu cầu tự vấn, tự nhận thức lại về nhiều vấn đề tưởng đã là chân lí. Cảm hứng triết luận nghiêm túc không hoàn toàn lấn át cảm hứng tự trào – đấy là cái duyên riêng của tác giả Một người Hà Nội.

Bài văn phân tích tác phẩm “Một người Hà Nội” số 4

“Một người Hà Nội“ là một tác phẩm tiêu biểu của nhà văn Nguyễn Khải. Qua đó, tác giả thể hiện cái nhìn vô cùng mới mẻ của nhà văn về con người, cuộc sống với một hình thức nghệ thuật in đậm cá tính sáng tạo của nhà văn.

Ngay từ cách đặt tên nhan đề “Một người Hà Nội” nhà văn đã mở ra hình tượng trung tâm của tác phẩm là một người Hà Nội mang trong mình vẻ đẹp hà Nội thuần túy không trộn lẫn. Bên cạnh đó còn mở ra không gian nghê thuật cổ kính, mảnh đất Kinh Kì, nghìn năm văn hiến đã trải qua cùng những thay đổi của thời đại. Cũng từ nhan đề có thể soi sáng được tư tưởng và chủ đề của tác phẩm.

“Một người Hà Nội” với nhân vật chính là cô Hiền – người xuất thân từ gia đình Hà Nội giàu có, thân thiện. Ở cô Hiền thấm sâu vẻ đẹp tinh thần, văn hóa cốt cách của một người Hà Nội gốc, tạo nên nơi người đọc về vẻ đẹp ấy sẽ bền vững, không bị nhạt nhòa theo thời gian. Cô cũng là người có tình yêu và gắn bó sâu sắc với mảnh đất hà Nội. Ngay cả khi nơi đây có đang oằn mình trong bom đạn thì cô vẫn bám trụ lại mảnh đất này bằng tình yêu và niềm tin mãnh liệt vào sự trường tồn của Hà Nội.

Ở cô Hiền người ta nhìn thấy hội tụ đầy đủ vẻ đẹp ngoại hình, tính cách và tâm hồn. Về ngoại hình cô mang vẻ đẹp quý phái, sang trọng của mọt người phụ nữ gốc Hà Nội. Bên cạnh đó, cô là người thẳng thắn, có cái nhìn nhạy bén, sâu sắc trước thực tế và là người dám bộc lộ quan điểm sống của mình, dám thẳng thắn nói lên và sóng thật với chính mình. Ở cô còn là người có lối sống văn minh hiện đại nhưng giữ được lối sống đẹp, không xô bồ, bon chen. Một người hà Nội như cô Hiền mang vẻ đẹp riêng trong cốt cách và nó được tỏa sáng trong bất kì hoàn cảnh nào.

Cô Hiền thể hiện là người hiểu được giá trị của cuộc sống, biết hướng đến giá trị cuộc sống và biết hài hòa giữa vật chất và tinh thần. Ngoài ra, cô vẫn giữ được thói quen thời trẻ của mình đó là giao lưu với văn nhân, nghệ sĩ, một cuộc sống phóng khoáng về tinh thần và một tâm hồn nghệ sĩ, là người biết yêu và trân trọng cái đẹp. Tuy vậy, cô vẫn là người có đầu óc thực tế trong việc lựa chọn chồng, gần 30 tuổi cô mới lấy chồng.

Nhưng người chồng cô chọn không mơ mộng một người làm quan hay làm nghệ sĩ. Người cô chọn là một ông giáo dạy tiểu học hiền lành chăm chỉ. Cô Hiền là người có đầu óc thực tế, khôn ngoan việc gì cũng tính toán trước sau, đã tính là làm, đã làm là không sợ lời đàm tiếu từ thiên hạ. Phải là người hiểu đời, trải đời có bản lĩnh cô mới vượt lên những chuyện thị phi được mất ở đời như thế.

Trong quan hệ với gia đình cô làm tròn bổn phận của một người vợ đảm đang, thông minh, tài giỏi trong việc làm kinh tế và tài giỏi trong việc quản lý gia đình. Đồng thời trong cách dạy con cái thì cô Hiền là người mẹ nghiêm khắc. Từ dáng ngồi trên bàn cô cũng chấn chỉnh và dạy con phải có lòng tự trọng. Một người mẹ có lòng tự trọng và ý thức rõ trách nhiệm của một công dân có lòng yêu nước.

Trong quan hệ với người ở cô hiền là người sống tình nghĩa nhân hậu, có trước có sau và gần gũi với mọi người như người thân trong gia đình. Chính vì vậy mà Nguyễn Khải ví cô như “hạt bụi vàng” và nhà văn trân trọng vẻ đẹp cốt cách và tâm hồn của một người Hà Nội như cô Hiền.

Ngoài cô Hiền, mặc dù không trọng tâm miêu tả nhưng Nguyễn Khải cũng khắc họa lại hững nhân vật Hà Nội khác trong tác phẩm. Đó là những thanh niên hà Nội đại diện cho thế hệ trẻ có tự trọng, có trách nhiệm với quê hương, Tổ quốc. Những chàng trai mang trong mình lí tưởng sống cao đẹp sẵn sàng xả thân vì Hà Nội, vì Tổ quốc mình.

Đặc biệt là Dũng – chàng trai có lòng yêu nước sâu sắc, sống có lí tưởng và trách nhiệm. Đó là Tuất một chàng trai biết kiềm lại cảm xúc của bản thân để hướng đến những điều lớn lao hơn. Và là mẹ Tuất- người mẹ phải gánh chịu sự mất mát to lớn, đánh đổi cả đứa con thân yêu của mình. Một người mẹ đầy nghị lực và bản lĩnh.

Tất cả tô lên một bức tranh khắc họa nhân vật là những con người hà Nội luôn âm thầm và lặng lẽ bằng những cách khác nhau để bảo vệ sự trường tồn của Hà Nội, bảo vệ những vẻ đẹp cốt cách và tâm hồn của những người Hà Nội.

Bài văn phân tích tác phẩm “Một người Hà Nội” số 5

Một người Hà Nội là truyện ngắn giàu tính triết luận, được sáng tác trong bối cảnh đổi mới văn học sau 1986. Triết luận vốn là một nét trội trong phong cách văn xuôi Nguyễn Khải thuộc giai đoạn sáng tác từ cuối những năm bảy mươi (của thế kỉ XX) trở đi, gắn liền với việc soi xét đối tượng dưới các góc độ văn hoá, lịch sử và triết học.

Trước đó, sáng tác của Nguyễn Khải đầy ắp cảm hứng chính luận, chuyên đề cập các vấn đề thời sự, chính trị của đất nước và thường lấy tiêu chí chính trị, đạo đức cách mạng để bàn luận, đánh giá sự kiện, con người. Rõ ràng, sự chuyển đổi từ cảm hứng chính luận sang cảm hứng triết luận đánh dấu một bước phát triển đáng ghi nhận trong tư duy nghệ thuật của nhà văn.

Hứng thú quan sát, thể hiện những vấn đề thế sự, đặc biệt là vấn đề khẳng định bản lĩnh cá nhân của con người giữa một hoàn cảnh sống mà cái “tôi” chưa được nhìn nhận công bằng, thoả đáng, tất cả đều liên quan tới việc chuyển đổi cảm hứng nói trên.

Các sáng tác lúc này vẫn không thiếu tính thời sự, nhưng giá trị của chúng đã vượt ra khỏi cái khung thời sự nhất thời để gây ám ảnh lâu dài. Việc nhà văn có ý thức tô đậm kinh nghiệm, thể nghiệm của cá nhân mình trong việc trình bày mọi vấn đề đã làm cho những trang viết của ông thấm đượm tinh thần đối thoại dân chủ, thoát li dần kiểu áp đặt chân lí một chiều trước đây.

Với một sáng tác mang tính triết luận, việc xếp đặt các nhân vật được miêu tả trong đó vào các phạm trù tốt – xấu, chính diện – phản diện quen thuộc một thời đã trở nên bất cập. Sự đánh giá về nhân vật có thể rất đa chiều. Lời khen hay lời chê của tác giả (thể hiện qua nhân vật kể chuyện xưng “tôi”) lúc này cũng chỉ có giá trị tham khảo thuần tuý, không hề mang tính chất “chân lí”, không phải là kết luận tối hậu. Trong Một người Hà Nội, “tôi” nhìn nhận bà Hiền là “một hạt bụi vàng”, đó là quyền của “tôi”. Người khác có thể có cách nhìn nhận khác, tất nhiên, không thể không tham khảo cách nhìn có tính chất gợi ý mà “tôi” đưa ra.

Nếu không hiểu nguyên tắc đánh giá này, lại lấy cách xây dựng nhân vật trong truyện của Nguyễn Khải ở giai đoạn sáng tác trước làm hệ quy chiếu, độc giả rất dễ có những phán quyết vô lí về tác giả trên các vấn đề quan điểm, lập trường chính trị, hoặc ngược lại, ra sức tán dương nhân vật bà Hiền, gán cho bà những phẩm chất tốt đẹp (theo mong muốn hay tưởng tượng, suy diễn của chính độc giả) mà bản thân nhân vật “tôi” không nói tới trong câu chuyện của mình.

Nếu căn cứ vào những gì đã được thể hiện trong truyện ngắn, độc giả có thể đặt lại tên tác phẩm Một người Hà Nội thành Nghĩ về một người Hà Nội. Dĩ nhiên, đây là đặt cho mình, nhằm mục đích lĩnh hội đúng tinh thần tác phẩm, cảm nhận đúng ý nghĩa của “thành phần” suy nghĩ trong kết cấu truyện ngắn này.

Quả là chuyện kể không có gì thật đặc biệt, nhưng suy nghĩ, đánh giá của nhân vật “tôi” thì lại chứa đựng nhiều điều thú vị. Đặc trưng truyện ngắn Nguyễn Khải vốn là thế: tỉ trọng những lời phân tích, bình luận bao giờ cũng lớn, nhiều khi lấn át cả sự miêu tả, trần thuật khách quan về đối tượng.

Viết Một người Hà Nội, điều cơ bản mà nhà văn hướng đến chưa hẳn là ca ngợi một con người, cho dù người đó đáng ca ngợi bao nhiêu đi chăng nữa. Cảm hứng chính của ông là khám phá bản sắc văn hoá Hà Nội – cái quyết định vận mệnh và vị thế của Hà Nội trong lịch sử, cũng là cái làm nền tảng cho bước phát triển mới của nó trong tương lai. Không phải ngẫu nhiên mà khi ngắm hình ảnh bà Hiền “lau đánh cái bát bày thuỷ tiên”, ông đã có một ghi chú tưởng như là bâng quơ: “Nếu là một thiếu nữ thì phải hơn”, rồi cảm thán: “thấy Tết quá, Hà Nội quá, muốn ở thêm ít ngày ăn lại một cái Tết Hà Nội”.

Cũng hoàn toàn hợp lô gíc việc nhà văn đã kết lại truyện ngắn như thế này: “Một người như cô phải chết đi thật tiếc, lại một hạt bụi vàng của Hà Nội rơi xuống chìm sâu vào lớp đất cổ. Những hạt bụi vàng lấp lánh đâu đó ở mỗi góc phố Hà Nội hãy mượn gió mà bay lên cho đất kinh kì chói sáng những ánh vàng!”. Lô gích thì lô gích nhưng vẫn lạ.

Ai đã từng quen với giọng văn tinh sắc, tỉnh táo, thậm chí là “lọc lõi” của Nguyễn Khải, hẳn phải ngỡ ngàng trước cái giọng “bốc” lên khá đột ngột mà nhà văn biểu lộ ở đây. Một chút giỡn đùa với chính văn mình hay niềm xúc động tận đáy tâm can cứ bật ra không nén được? Trả lời quyết hẳn theo bề nào cũng khó, nhưng điều có thể khẳng định chắc chắn là: Nguyễn Khải thật sự yêu quý Hà Nội, có những suy nghĩ thâm trầm về “đất kinh kì” và tha thiết được thấy một Hà Nội hiện đại, đẹp, sang, xứng với bề dày văn hoá truyền thống của nó.

Hình tượng bà Hiền được xây dựng lên như để chứng minh có một tinh thần Hà Nội, một linh hồn Hà Nội thực sự đã và đang tồn tại, để lại dấu ấn đậm nét trong những người con của nó. Bà Hiền không phải là một “tấm gương” kiểu mẫu hiểu theo nghĩa thông thường để các tổ chức xã hội nêu lên cho mọi người học tập, theo cách người ta vẫn thường làm nhằm mục đích tuyên truyền, vận động.

Bà chỉ là người dân bình thường, dù xuất thân là con nhà “tư sản”, dù đã có một thời “vang bóng” (mà thực ra, “tư sản” thì cũng có thể là người dân bình thường được chứ!). Tác giả (và người kể chuyện) hiểu vậy nên chọn cách giới thiệu, chuyện trò về bà thật dung dị. Bà là một người bà con xa, người dì họ của “tôi”, thế thôi! Mọi việc bà làm đều tự nhiên, như cuộc sống hàng ngày, chẳng gây chấn động gì tới xung quanh cả.

Ấy vậy, ai dám bảo chất Hà Nội ở bà không đậm đặc? Vả lại, muốn khám phá bề sâu văn hoá của một vùng đất, tuyệt đối không được bỏ qua những điều tưởng là nhỏ nhặt. Nhiều khi chính chúng lại cung cấp cứ liệu thuyết minh về vấn đề có sức nặng hơn hẳn những chuyện to tát. Dõi theo mạch kể của nhân vật “tôi”, người đọc thấy quả không có gì đáng gọi là “sự kiện” việc bà Hiền lấy chồng, quản lí gia đình, sinh con, dạy con, cho con đi bộ đội, tiếp khách, bài trí nơi ở, duy trì nếp sinh hoạt riêng.

Một câu bình phẩm của “tôi”, rằng, việc bà lấy ai không lấy, lại lấy một ông giáo cấp tiểu học hiền lành chăm chỉ làm chồng đã “khiến cả Hà Nội phải kinh ngạc”, phần nhiều chỉ là một cách nói ngoa ngôn khá đặc thù của văn chương. Nếu quả người ta có kinh ngạc, thì đó là sự kinh ngạc trước một chuyện không ngờ lại xảy ra bình thường (thậm chí là tầm thường) quá như thế. Tuy vậy, nếu bình tâm suy xét, ta lại thấy trong tất cả những cái bình thường kia lại chứa đựng một triết lí sống đáng vị nể, vừa thể hiện bản lĩnh cá nhân một con người, vừa bộc lộ kiểu ứng xử đặc trưng của đất kinh kì.

Bà Hiền biết rõ mình là ai (câu tuyên bố “thẳng thừng” của bà đối với nhân vật “tôi” đã chứng thực điều đó: “Một đời tao chưa từng bị ai cám dỗ, kể cả chế độ”), và cũng tương tự thế, bà hiểu sâu xa mình là người Hà Nội. Sau năm 1954, gia đình bà chẳng di cư vào Nam vì “không thể rời xa Hà Nội”. Đây không đơn giản chỉ là một biểu hiện của tình yêu đối với nơi đã sinh ra và nuôi dưỡng mình, mà còn là một biểu hiện của niềm tin vào thế tồn tại bền vững của mảnh đất đã trải qua nhiều thăng trầm của lịch sử, có văn hoá riêng đã thấm vào máu thịt cư dân nơi này.

Bà Hiền có thể không nghĩ một cách rành rọt như vậy, nhưng tác giả và nhân vật “tôi” – một sự hoá thân của ông – thì ý thức về điều này quá sâu sắc. Nhân vật “tôi” cũng khó lòng quên lời bà Hiền răn lũ con của anh: “Chúng mày là người Hà Nội thì cách đi đứng, nói năng phải có chuẩn, không được sống tuỳ tiện, buông tuồng”. Hoá ra vậy, làm người Hà Nội vừa là một vinh dự, vừa là một trách nhiệm.

Bà Hiền hẳn là luôn đau đáu về vấn đề này, chẳng thế mà dù đã ngoài bảy mươi, bà vẫn để lộ tâm sự đó của mình khi hỏi người cháu (“tôi”) vừa mới từ thành phố Hồ Chí Minh ra thăm: “Anh ra Hà Nội lần này thấy phố xá thế nào, dân tình thế nào?” Ngỡ đó chỉ là một câu hỏi xã giao thông thường mà thực chất lại gửi gắm bao nỗi niềm, bao phấp phỏng và hi vọng về tương lai của Hà Nội.

Những điều vừa nói trên chứng minh sự gắn bó làm một, rất máu thịt, giữa bà Hiền và Hà Nội. Nhưng cốt lõi ứng xử của người Hà Nội được thể hiện qua bà Hiền là cái gì? Khi kể về bà, nhân vật “tôi” rất hay nói đến chữ tính: “tính thế là đúng”, “Mọi sự mọi việc đều được các bà tính trước cả. Và luôn tính đúng…”, “đã tính là làm”, “Cô tôi tính toán việc nhà việc nước đại khái là như thế”, “cô muốn mở rộng sự tính toán…”. Dĩ nhiên, đã “tính đúng” thì người đó là người khôn (“cô khôn hơn các bà bạn của cô”), người “có đầu óc rất thực tế”, biết thích ứng.

Với người “khôn”, mọi điều khó mấy xem ra cũng có thể thu xếp được một cách khá nhẹ nhàng: là “tư sản” mà khi ở với chính quyền mới, gia đình bà Hiền không bị hề hấn gì, bà lại có khả năng nuôi cả gia đình đủ ăn mà không phải dính dáng gì tới hai chữ “bóc lột”… Bà Hiền có thể “cười rất tươi” – một kiểu cười quá đỗi tự tin – khi ông cháu thóc mách: “Tại sao cô không phải học tập cải tạo, cô giấu cũng tài nhỉ?”

Nói ra toàn những chuyện như thế về bà Hiền, phải chăng tác giả muốn kết luận rằng cái “bản sắc” của người Hà Nội là tính và khôn? Sự thực hoàn toàn không phải thế. Đằng sau mỗi câu chuyện kể về bà Hiền, tác giả luôn luôn cho ta thấy sự tồn tại của một bản lĩnh sống vững vàng, một khả năng tự ý thức rất cao, một lòng tự trọng không thể nghi ngờ.

Tự trọng ở đây gắn liền với việc không để mình rơi vào tình trạng nhục nhã, sống giữ được cốt cách và đặc biệt là không quên trách nhiệm với cộng đồng (một tinh thần trách nhiệm không cần tuyên bố ồn ào, bốc đồng, hời hợt). Những lời thổ lộ của bà Hiền xung quanh việc bằng lòng cho hai đứa con đi bộ đội thể hiện rõ điều này: “Tao đau đớn mà bằng lòng, vì tao không muốn nó sống bám vào sự hi sinh của bạn bè.

Nó dám đi cũng là biết tự trọng”, “Tao không khuyến khích, cũng không ngăn cản, ngăn cản tức là bảo nó tìm đường sống để các bạn nó phải chết, cũng là một cách giết chết nó”, “Tao cũng muốn được sống bình đẳng với các bà mẹ khác, hoặc sống cả, hoặc chết cả, vui lẻ có hay hớm gì”… Không phải không có những ngộ nhận về tính cách người Hà Nội. Trong truyện, tác giả đã khéo tạo ra một tình huống để làm rõ vấn đề này.

Trong khi nhân vật “tôi”, giữa một bữa tiệc, đã “nói hơi nhiều” những ý chê trách Hà Nội trong sự so sánh nó với những vùng miền khác, thì nhân vật Dũng, con bà Hiền, mới từ chiến trường miền Nam trở về, đã kể cho mọi người nghe về phản ứng tâm lí của một người mẹ Hà Nội có con hi sinh: “Bà níu chặt lấy một cánh tay của cháu, người bà run bần bật nhưng không khóc, và bà nói run rẩy: “Nín đi con, nín đi Dũng! Cô đã biết cả. Cô biết từ mấy tháng nay rồi”. Đúng là một sự đối trọng. Câu chuyện của Dũng tự nó nói lên bao điều!

Ta đã phân tích khả năng tính của bà Hiền, một người Hà Nội. Tính không phải bao giờ cũng gắn với thói thực dụng. Nhiều khi, nó là đòi hỏi bắt buộc của một cách tồn tại giữa thời cuộc có nhiều thay đổi, xáo trộn khó lường. Bà Hiền quá nhạy cảm về vấn đề này. Bà có chính kiến, chủ kiến riêng về nhiều chuyện “vĩ mô” của nhà nước, chế độ. Khi đứa cháu nói: “Nước được độc lập vui quá cô nhỉ?”, bà đã trả lời: “Vui hơi nhiều, nói cũng hơi nhiều, phải nghĩ đến làm ăn chứ?”.

Theo bà “Chính phủ can thiệp vào nhiều việc của dân quá, nào phải tập thể dục mỗi sáng, phải sinh hoạt văn nghệ mỗi tối, vợ chồng phải sống ra sao, trai gái phải yêu nhau như thế nào, thậm chí cả tiền công sá cho kẻ ăn người ở…”. Bà cũng nhận ra có cái gì đó không phù hợp trong cách nghĩ “không thích cá nhân làm giàu”: “Chú tuy chưa già nhưng đành để ngồi chơi, các em sẽ đi làm cán bộ, tao sẽ phải nuôi một lũ ăn bám, dù họ có đủ tài để không phải sống ăn bám”.

Đặc biệt, bà có một quan điểm hết sức khác thường: “Xã hội lúc nào cũng phải có một giai tầng thượng lưu của nó để làm chuẩn cho mọi giá trị…”. Chưa hết, bà còn phát biểu về cái huyền vi của sự sống mà càng ngày ta càng phải thừa nhận: “Thiên địa tuần hoàn, cái vào ra của tạo vật không thể lường trước được”.

Như vậy, trong cái tính của bà Hiền có chứa đựng một “tầm nhìn xa” đáng để cho nhân vật “tôi” phải thốt lên khâm phục: “Bà vẫn giỏi quá, bà khiêm tốn và rộng lượng quá. Một người như cô phải chết đi thật tiếc…”. Chính tầm nhìn xa có ở bà Hiền, rộng ra là có ở nền văn hoá của đất kinh kì đã tạo nên cái mà trên kia ta đã gọi là thế tồn tại uyển chuyển và ngoan cường của Hà Nội, vượt lên trên mọi ba động của đời sống chính trị.

Chi tiết bà Hiền kể cho nhân vật “tôi” nghe về sự hồi sinh sau cơn bão của cây si cổ thụ ở đền Ngọc Sơn mang ngụ ý triết lí sâu sắc. Các nhân vật trong truyện dường như chỉ “luận” về sự kiện này xoay quanh sự tiếp nối của nhiều thế hệ người Hà Nội. Kì thực, ý nghĩa của nó trong cấu trúc chỉnh thể của tác phẩm còn lớn hơn thế. Cũng cần lưu ý: nhiều quan điểm được nói ra từ miệng bà Hiền cũng là cái mà nhân vật “tôi” và tác giả tỏ ra tâm đắc.

Lời trần thuật khách quan về đối tượng đã quyện chặt với lời phân tích mang theo cách đánh giá riêng của người viết. Đây quả là một nét đặc sắc của văn Nguyễn Khải – một nhà văn vẫn được nhiều người viết khác cùng thế hệ bái phục về “năng khiếu” có thể gài lồng được vào sáng tác của mình những tư tưởng riêng đầy táo bạo, không dễ phát ngôn, về đời sống.

Nói về “dân” Hà Nội, người ở nhiều vùng miền khác vẫn thường thừa nhận thanh lịch là đặc điểm nổi bật. Vậy, ở một người khôn ngoan, giỏi tính toán như bà Hiền, nét thanh lịch ấy có tồn tại không và nếu có thì nó được biểu hiện như thế nào? Thực ra, không hề có sự đối chọi nào giữa các phẩm chất ấy trong con người bà Hiền cả.

Đừng lầm về kiểu xưng hô bỗ bã của bà đối với con cháu (vốn nó biểu hiện rõ tư cách của con người quyết đoán, ý thức mình là “nội tướng” trong gia đình), mà hãy nhìn vào thực chất của vấn đề, biểu hiện qua thái độ chu tất trong nết ăn, nết mặc, trong cử chỉ lau đánh cái bát đựng hoa thuỷ tiên, trong việc duy trì một cách “bướng bỉnh” cái nền nếp sinh hoạt xa lông một thời vẫn thường bị định kiến là “tư sản”. Không, trong ngày thường, một người như bà Hiền đã hoà nhập rất tốt vào cuộc sống chung, cũng “áo bông ngắn, quần thâm, đi dép hoặc đi guốc, vuông khăn len tơi tớp buộc quanh cổ hay bịt đầu”.

Nhưng bà, cũng như các bạn của mình, không vì vậy mà không được quyền sống cho mình. Họ, lúc cần, đã biết rũ bỏ “đồng phục” để hoá thân thành những con người khác, đáng để cho những kẻ yêu cái đẹp ngắm nhìn: “bà chủ xuất hiện trước như diễn viên trên sân khấu, rồi một loạt bảy tám bà tóc đã bạc hoặc nửa xanh nửa bạc, áo nhung, áo dạ, đeo ngọc đeo dây đi lại uyển chuyển”. Tất cả những điều đó cũng là biểu hiện cụ thể của bản lĩnh sống – một vấn đề hết sức nghiêm túc cần được nhìn nhận thấu đáo trong hoàn cảnh sống của đất nước, của thời đại bây giờ.

Nhìn chung, bà Hiền đúng là một người Hà Nội, dù bà không thuộc “típ” điển hình quen thuộc mà văn học cách mạng một thời ưa xây dựng trong cảm hứng ngợi ca. Dĩ nhiên, bà cũng đã dành được sự ngợi ca, quý trọng rất mực của nhân vật “tôi”, của tác giả, nhưng đây là sự ngợi ca, quý trọng xuất phát từ một tiêu chí đánh giá khác với trước. Cái lõi của tiêu chí đó chính là sự khẳng định bản lĩnh cá nhân của con người trong đời sống – điều sẽ khiến cho con người trong khi biết thích ứng với thời đại thì vẫn đóng góp được nhiều cho việc cải biến, cải tạo môi trường tồn tại của mình theo hướng tích cực.

Viết về một mẫu người như bà Hiền, văn Nguyễn Khải trở nên khoái hoạt hơn bao giờ hết. Hoàn toàn có thể nói bà Hiền chính là nhân vật lí tưởng (không nhất thiết phải là nhân vật anh hùng, nhân vật phi thường) của sáng tác Nguyễn Khải giai đoạn từ khoảng 1978 trở đi (theo sự tự phân chia của chính nhà văn).

Qua bà cũng như qua các nhân vật khác thuộc loại này, nhà văn đã thực sự có đóng góp cho việc dân chủ hoá hoạt động sáng tác văn học nước nhà. Các thước đo về con người, cuộc sống trở nên đa dạng hơn, và chính điều đó đã kích thích tinh thần đối thoại ở độc giả. Thì đó, nhân vật “tôi” trong tác phẩm đâu có được xây dựng như một con người nắm giữ chân lí, có quyền đưa ra lời phán quyết sau cùng về mọi sự.

Anh ta đã từng hiện lên như một kẻ khôn ranh, ứng xử thiếu đàng hoàng với người cô “tư sản” (không ghi tên bà Hiền trong lí lịch cán bộ), một kẻ tự thị vô lối khi đưa ra những lời nhận xét hấp tấp về Hà Nội trong một bữa tiệc. Anh ta cũng có thể sai, cũng phải chịu lời phản biện từ chính thực tế cuộc sống. Biết nghĩ về sự “nín lặng” (không đồng nghĩa với sự chấp thuận) của người khác thì cũng đồng nghĩa với việc tự mình biết sẵn sàng nín lặng khi những “ý thức” khác cất lời.

Sự hấp dẫn của văn của Nguyễn Khải ở giai đoạn sáng tác thứ hai chính được đưa tới từ đặc điểm giàu tính đối thoại dân chủ này. Dù không có ý áp đặt cho ai về cách đánh giá một con người, cụ thể ở đây là bà Hiền, Nguyễn Khải, thông qua nhân vật “tôi”, vẫn có khả năng tạo được sự tán đồng của người đọc khi ông đưa ra nhận xét: bà Hiền chính là một người Hà Nội, tuy chỉ là hạt bụi nhưng đó lại là hạt bụi vàng của đất kinh kì!

Bài văn phân tích tác phẩm “Một người Hà Nội” số 6

Nói đến thế hệ nhà văn viết về nông thôn thì Nguyễn Khải là một trong số đó. Các tác phẩm viết về nông thôn của ông chủ yếu là trong quá trình xây dựng cuộc sống mới. Truyện ngắn “Một người Hà Nội” được viết với chủ đề như thế. Truyện ngắn đã phát hiện được vẻ đẹp trong chiều sâu tâm hồn, tính cách con người Việt Nam qua bao biến động, thăng trầm của đất nước.

Truyện được viết dưới nhãn quan của nhân vật “tôi” và nhân vật trung tâm là cô Hiền. Truyện kể về những biến chuyển của Hà Nội những năm đầu vừa giải phóng. Hà Nội chuyển biến từ cảnh vật cho đến cách sống, cách sinh hoạt. Và cách sống ấy là của nhà cô Hiền, “gia đình này rất khó gắn bó với chế độ mới, và chế độ mới cũng không thể tin cậy được ở họ.

Là vì họ ở rộng quá, một tòa nhà tọa lạc ngay tại một đường phố lớn, hướng nhà nhìn thẳng ra cây si cổ thụ và hậu cung của đền Ngọc Sơn”. “Cái mặc họ cũng sang trọng quá. Mùa đông ông mặc áo ba – đờ – xuy, đi giày da, bà mặc áo măng – tô cổ lông, đi giày nhung đính hạt cườm. Lại cái ăn nữa cũng không giống số đông.

Bàn ăn trải khăn trắng, giữa bàn có một lọ hoa nhỏ, bát úp trên đĩa, đũa bọc trong giấy bản và từng người ngồi đúng chỗ đã quy định”. “Họ đang tìm cách thích ứng với chế độ mới, cách sống, cách làm việc, và cả cách nói năng nữa”. Truyện tập trung chủ yếu nói về lễ nghi của người Hà Nội mà cô Hiền là hiện thân của nó. Cô vẫn thường răn: “Chúng mày là người Hà Nội thì cách đi đứng, nói năng phải có chuẩn, không được sống tùy tiện, buông tuồng”.

Cô Hiền bị chê là tư sản nhưng rất khôn khéo trong việc nhà việc nước. Những nét đẹp của người Hà Nội cô đều có cả. Miêu tả cách sống của người Hà Nội song khi cách sống ấy đã bị mai một, tác giả đã thể hiện thái độ của mình. Cách sống ở Hà Nội bây giờ đã thay đổi.

“Cách sống, cái tâm lý sống ồ ạt, xô bồ, vụ lợi của đám người vừa thoát khỏi cái chết cái khổ”. Họ không còn giữ được cái bình tĩnh. Phần hồn Hà Nội không còn nữa. “Đã lâu không đến nên quên đường lát phải hỏi thăm. Có người trả lời, là nói sõng hoặc hất hàm, có người cứ giương mắt nhìn mình như nhìn con thú lạ”.

Trong tác phẩm, Nguyễn Khải còn thể hiện vẻ đẹp của Dũng, những thanh niên Hà Nội. Họ tình nguyện đăng kí đi đánh Mỹ với lòng sắt son, tình yêu nước nồng nàn. Trước cái chết của đồng đội, họ không những thấy tiếc thương mà còn hổ thẹn. Tuất là bạn của Dũng nhưng Tuất đã hi sinh ở trận đánh vào Xuân Lộc, trước ngày toàn thắng có mấy ngày.

Anh về đến Hà Nội “là muốn nhào ngay lại nhà ga, đến phòng phát thanh, gặp mẹ Tuất, nói với bà một lời, vì bọn cháu vẫn ở cạnh nhau suốt mười năm. Vậy mà phải mấy ngày sau, cháu mới dám đến. Cháu biết nói thế nào với một bà mẹ có con hi sinh, mà bạn của con mình lại vẫn còn sống đến tận bây giờ, đến hôm nay”.

Thêm một nét đẹp nữa về con người Hà Nội. Họ biết đồng cảm với những người bất hạnh hơn mình. Phần cuối tác phẩm, cô Hiền đã già, Hà Nội đã đổi khác nhưng nét Hà Nội trong cô vẫn còn đó, không bị pha trộn. Chính bởi đó mà tác giả thể hiện sự tiếc nuối nếu nét ấy không còn. “Một người Hà Nội như cô chết đi thật là tiếc, lại một hạt bụi vàng của Hà Nội rơi xuống chìm sâu vào đất cổ”.

Kết thúc tác phẩm, Nguyễn Khải đã cho người đọc nhiều suy ngẫm nhất là đối với những ai sinh ra và lớn lên tại Hà Nội. Tác phẩm như một bài ca nhẹ nhàng về lối sống, con người Hà Nội. Giọng điệu trần thuật tự nhiên và nghệ thuật xây dựng nhân vật điển hình của Nguyễn Khải đã giúp cho tác phẩm tiến gần với bạn đọc hơn.

Bài văn phân tích tác phẩm “Một người Hà Nội” số 7

Nguyễn Khải được biết đến là một cây bút tiêu biểu của văn học Việt Nam thời kì kháng chiến. Nhà văn Nguyễn Khải đã sống và chiến đấu và trưởng thành trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ ác liệt nên những trải nghiệm thực tiễn của cuộc sống, và đó là nơi chiến trường cũng được nhà văn khắc họa khá rõ nét trong các tác phẩm thơ văn của mình.

Có thể nói trong toàn bộ sáng tác của mình, nhà văn Nguyễn Khải đường như cũng đã có nhiều tác phẩm viết về đề tài nông thôn trong xây dựng cuộc sống mới, ông đặc biệt ông luôn luôn quan tâm đến tính cách, tư tưởng, tinh thần của con người hiện nay trước những biến động phức tạp của đời sống. Và một trong số tác phẩm thể hiện rõ điều đó, tiêu biểu nhất có thể kể đến truyện ngắn “Một người Hà Nội”.

Truyện ngắn “Một người Hà Nội” dường như là một câu chuyện xoay quanh nhân vật trung tâm là cô Hiền. Cô Hiền như được hiện lên là một người gốc Hà Nội và được nhà văn Nguyễn Khải ví như “Hạt bụi vàng” của đất Hà Nội xưa. Trong truyện ngắn đặc sắc này, nhà văn Nguyễn Khải cũng như đã phát hiện ra vẻ đẹp trong chiều sâu tâm hồn, tính cách con người Việt Nam trải qua những biến động, thăng trầm của đất nước.

Cụ thể ở đây chính là xã hội Việt Nam những năm giải phóng và tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Có thể nói trong bối cảnh xây dựng xã hội mới ấy, bên cạnh những mặt tích cực thì vẫn còn tồn tại những mặt tiêu cực, những mặt hạn chế tiêu cực. Nhân vật cô Hiền dường như đã được nhà văn Nguyễn Khải xây dựng trong bối cảnh đầy những sự đổi thay đó.

Ta như thấy được những tác động khách quan không hề làm thế giới nội tâm cũng như con người của cô bị tác động, ngược lại ta như cảm nhận được ở người đàn bà ấy vẫn hiện lên với bao phẩm chất, tính cách đáng quý, đặc trưng cho nếp sống đặc trưng, tính cách của con người Hà Nội.

Sau khi giải phóng đất nước Việt Nam ta lại bắt đầu xây dựng xã hội chủ nghĩa, và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, Đảng và nhà nước chủ trương xóa bỏ tư sản, xây dựng công hữu. Để đáp ứng được lời kêu gọi của Đảng, cũng như là sự hòa mình vào cuộc sống mới, nên chế độ tư sản cũng như những người tư sản bị tẩy chay, tiến tới xóa bỏ, dọn đường cho xã hội chủ nghĩa.

Và trong không khí ấy, cô Hiền được biết đến là một người dân gốc Hà Nội lại đi đầu trong phong trào, lối sống mới “Cô Hiền vào những năm ấy đã cạo răng và uốn tóc, mặc quần áo đồng màu, hoặc đen hoặc trắng. Còn nữ trang đã biết dùng đồ ngọc, bạch kim và hạt xoàn”. Cũng chính vì vậy nên trong cái nhìn của nhiều người, và trong đó có cả nhà văn thì cô Hiền có cách sống như một nhà tư sản thực thụ không sai. Và điều này dường như cũng đã được chính cô thừa nhận “Tao có bộ mặt tư sản, một cách sống tư sản….”

Có thể nói ngay những ấn tượng đầu tiên, dù không biết cô Hiền có thực sự là tư sản hay không, nhưng đường như người đọc đã cảm nhận được ở nhân vật này một cá tính khá mạnh mẽ, thậm chí là bản lĩnh hơn người. Bởi thực chất ở thời kì bấy giờ, dù có là tư sản thì người ta cũng có xu hướng che đậy, ngụy trang cho bản chất thật của mình. Ký do là vì một khi bị lộ thì có thể bị tẩy chay, tịch thu tài sản.

Nhưng ở đây, ta lại thấy cô Hiền không làm điều đó, cô sống đúng với con người, tính cách của con người mình. Tuy sống như một người tư sản thực thụ, mọi người có thể thấy và đánh giá nhưng cô Hiền rất tự tin vào chính bản thân mình, cũng như tự tin vào cuộc sống trong sạch, chính trực của mình vậy. Cô đã từng khẳng định cuộc sống của mình là tự lực, không hề bóc lột của ai, vì vậy không thể thành tư sản được “….tao có bộ mặt tư sản, một cách sống tư sản, nhưng lại không bóc lột của ai cả thì làm sao thành tư sản được”.

Qua câu nói của cô Hiền, người đọc dường như cũng có thể thấy được cô là một người ý thức rất cao về mình, hay đó là những lời đàm tiếu, cách nhìn nhận, đánh giá của mọi người đối với cô không phải cô không biết. Mà thực tế ngược lại cô nhận thức được khá tường tận, nhưng “cây ngay không sợ chết đứng’, cô Hiền có lẽ vẫn mạnh mẽ sống đúng với con người, không bị vì sự tác động khách quan đó mà thay đổi hay bó buộc chính cuộc sống của mình.

Cô Hiền có lẽ cũng là một người thức thời, những thay đổi hay bản chất thật sự của thời đại cô đều nắm bắt rõ, từ đó cô định hướng cho công việc, cuộc sống mình “Chế độ này không thích cá nhân làm giàu, chỉ cần họ đủ ăn, thiếu ăn một chút càng hay, thiếu ăn là vinh chứ không nhục, nên tao chỉ cần đủ ăn…”, ta có thể thấy cô nhận thức được cả mặt hạn chế của xã hội thời kì đổi mới, nhận thức được đấy nhưng cô không chạy theo xu hướng, không uốn mình theo phong trào, cố tỏ ra nghèo khổ để thể hiện mình là người “công dân tốt của xã hội”.

Cô Hiền có lẽ sống trước hết là vì mình, vì cuộc sống của cả gia đình mình , và cuộc sống ấy là hoàn toàn tự chủ“…Cô tự biết làm hoa giấy không thể làm giàu được nhưng rất đủ ăn, lại nhàn, không phải lo sợ gì…”. Cô Hiền còn được xem là con người thức thời, nhạy bén nhưng cũng rất thực tế, ngay thẳng. Và chính những sự ngay thẳng của cô còn thể hiện ra ngay trong lời góp ý với nhà văn Nguyễn Khải “ Mày bắt nạt vợ mày quá, không để nó tự quyết định bất cứ việc gì, vậy là hỏng….”, và dường như chỉ cần một câu nói thôi nhưng ta nhận thức được ở cô Hiền một tư tưởng dân chủ, lối sống của những con người hiện đại.

Và theo cô Hiền thì công việc trong gia đình bên cạnh trụ cột chính là người chồng thì những người vợ vẫn có quyền đóng góp, đều có quyền quyết định trước những vấn đề liên quan đến gia đình của mình vậy. Có thể thấy rằng những lời nói của cô là sự góp ý chân thành nhưng cũng là lời phê bình đối với sự gia trưởng của nhà văn “…người đàn bà như không là nội tướng thì cái gia đình ấy cũng chẳng ra sao”.

Cô Hiền là nhân vật là người đề cao những nguyên tắc, những chuẩn mực về đạo đức, và sự coi trọng, đề cao đó thể hiện ra ngay trong cách dạy dỗ của cô với những đứa nhỏ. Chuyện khi chúng ngồi vào bàn ăn thì cô sửa cho từ cách ngồi, cách cầm bát cầm đũa, và chỉ cả những cách múc canh và cả cách nói chuyện trong bàn ăn. Và cô cũng răn lũ nhỏ “Chúng mày là người Hà Nội thì cách đi đứng nói năng phải có chuẩn, không được sống tùy tiện, buông tuồng”.

Cô Hiền đợc biết đến tuy không phải là người sống quá nguyên tắc, gia giáo nhưng dường như những truyền thống lâu đời của người Hà Nội thì cô cũng nghiêm khắc dạy dỗ, vì đó không chỉ là thói quen thuần túy mà còn là nét đẹp văn hóa song đồng thời cũng là phép tắc, cách ứng xử cơ bản của con người. Và theo cô Hiền thì phải dạy để chúng biết tự trọng, biết ý thức về bản thân để sau này có thể trở thành người có ích “…Tao chỉ dạy chúng nó biết tự trọng, biết xấu hổ còn sau này muốn sống ra sao là tùy…”

Có thể thất những nét ính cách, con người của cô Hiền được bộc lộ rõ nét qua tình huống người con trai của cô xung phong đi lính. Vào năm 1965, khi mà cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước ở miền Nam đang diễn ra căng thẳng. Đảng và nhà nước ta đã huy động sức người cũng như sức của để chi viện nhanh cho miền Nam ruột thịt. Trước bối cảnh đó, thì người con trai cả của cô Hiền đã xung phong vào miền Nam làm nhiệm vụ, cô Hiền lúc này không hề chần chừ, lưỡng lự mà quyết định cho con đi ngay.

Có thể thấy rằng sự quyết đoán này không phải vì cô Hiền không thương con hay coi nhẹ những hi sinh nơi chiến trường mà đều xuất phát từ chính ý thức của một người công dân, một người mẹ mẫu mực. Cô cho đứa con đi lính là còn muốn nó có ý thức trước đất nước mình đang sống, biết sống tự trọng và là một người công dân sống có ích: “ Tao đau đớn mà bằng lòng, vì tao không muốn nó sống bám vào sự hi sinh của bạn bè. Nó dám đi cũng là biết tự trọng”.

Từ khi đi lính thì không có bất kì tin tức gì thì người con thứ hai của cô cũng làm đơn xin tòng quân, nối tiếp chí hướng của người anh. Với tư cách của một người mẹ, cô Hiền không khỏi đau xót, thương tâm nhưng càng thương con thì cô càng muốn chúng sống đúng với bổn phận, với trách nhiệm của mình. Cô cũng ý thức được đất nước đang cần những sự hi sinh và bao thế hệ của con trai cô cũng đã đi lính, đã dâng hiến cho đất nước.

Cô không ngăn cản chúng ra đi, vì như thế là ích kỉ khi bảo con mình tìm đường sống cho mình còn phó thác mọi trách nhiệm, hi sinh cho bạn bè cùng trang lứa “…Tao không khuyến khích, cũng không ngăn cản, ngăn cản tức là bảo nó tìm con đường sống để các bạn nó phải chết, cũng là một cách giết nó”.

Như vậy, ta cũng như đã có thể thấy nhân vật cô Hiền là một người thức thời, sâu sắc nhiều trải nghiệm. Phải có những tình huống truyện như vậy thì mới làm nổi bật lên những phẩm chất đáng quý ở cô. Đó còn là một con người thật ngay thẳng, không sống giả dối, vụ lợi, và là một con người đúng chuẩn của người Hà Nội – chuẩn mực, nề nếp xưa.

Và với tư cách là một người công dân của Tố quốc Việt Nam cô là một người công dân có trách nhiệm, còn xét với tư cách của một người mẹ cô thương con thì cô là một người mẹ biết cách dạy dỗ, giáo dục, không vì những tình cảm cá nhân và ngăn cản để con mình trở thành những người không có trách nhiệm, ý thức với đất nước được đặt lên hàng đầu.

Bài văn phân tích tác phẩm “Một người Hà Nội” số 8

Trải qua hàng nghìn năm văn hiến, Hà Nội đã trở thành mảnh đất kết tinh bao tinh hoa của đất trời, là nơi hội tụ cảm xúc của biết bao thế hệ văn nghệ sĩ. Vùng đất kinh kỳ dường như hoá thân thành “nhân vật” có tâm hồn trong trong văn thơ, chẳng cần xô bồ hay hối hả, Hà Nội vẫn để lại dấu ấn riêng gây thương nhớ cho những ai đã từng ghé qua.

Chẳng lãng mạn như Tô Hoài, Đỗ Phấn, truyện ngắn Một người Hà Nội của Nguyễn Khải đã để lại trong lòng người đọc biết bao cảm xúc dạt dào, vẻ đẹp con người được khắc hoạ thật tinh tế, chân thật, mang đậm màu sắc Hà thành.

Nguyễn Khải sinh ra tại Hà Nội, ông trải qua nhiều bước ngoặc lớn trong cuộc đời mình. Năm 1950, ông bắt đầu sự nghiệp văn chương với những tác phẩm đầu tay: Xây dựng (1950-1951), Xung đột (phần I – 1959, phần II – 1962),… Các tác phẩm viết về đề tài nông thôn: Mùa lạc (1960), Người trở về (1964),… Từ sau năm 1975, các tác phẩm của ông đề cập chủ yếu đến vấn đề chính trị – xã hội mang tính thời sự, đặc biệt là tâm lý, tư tưởng con người trước những biến động của thời cuộc.

Các tác phẩm tiêu tiểu của Nguyễn Khải trong giai đoạn này: Cha và con, và… (1979), Thời gian của người (1985) và đặc sắc nhất là truyện ngắn Một người Hà Nội được ông viết năm 1990. Tác phẩm đã khắc hoạ rõ nét vẻ đẹp tính cách và tâm hồn của con người Hà Nội qua biết bao thăng trầm, biến động của đất nước.

Nhan đề Một người Hà Nội được Nguyễn Khải đặt đã làm nổi bật lên hình tượng trung tâm xuyên suốt của tác phẩm chính là “người Hà Nội” mang trong mình vẻ đẹp toàn diện từ ngoại hình, tính cách cho đến tâm hồn. Nhan đề không màu mè, khoa trương cũng đủ gây ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc, nó như mở ra một không gian nghệ thuật tuyệt mỹ, một mảnh đất Hà thành xinh đẹp, cổ kính, trải qua hàng ngàn năm thăng trầm của lịch sử dân tộc.

Nguyễn Khải xây dựng nhiều tuyến nhân vật đều xuất thân là người Hà thành, tuy nhiên nổi bật là cô Hiền – nhân vật chính trong truyện. Cô xuất thân trong một gia đình giàu có, nế nếp, có nhan sắc, yêu văn chương và có trí thông minh hơn người. Ở nhân vật này, toát lên vẻ đẹp thuần tuý không trộn lẫn, vẻ đẹp của tinh thần và cốt cách thấm sâu từ nền văn hoá vùng đất kinh kỳ, không thể phai nhoà theo năm tháng.

Cô Hiền yêu mảnh đất này, nơi cô sinh ra và lớn lên với biết bao hoài niệm, cô vẫn ở lại Hà Nội thân thương mặc cho bom đạn đang đổ xuống nơi đây, chẳng ngại hiểm nguy đang trực chờ cô và gia đình mình vẫn bám trụ chỉ bởi vì “không thể rời xa Hà Nội”.Người phụ nữ có vẻ đẹp quý phái, đầy lòng kiêu hãnh, sự tự tin vốn có của người Đô thành, cùng với con mắt nhạy bén, sắc sảo dám bộc lộ quan điểm thẳng thắn, dám sống thật với bản thân.

Mặc cho xã hội đang dần thay đổi, nếp sống hối hả xô bồ đang ngày càng lan rộng trong nhân dân, cô Hiền vẫn giữ cho cho mình được lối sống đẹp, cách cư xử nhã nhặn, thanh cao đúng chuẩn Hà thành. Quả là một con người thức thời, cô nhanh chóng dung hoà được giá trị vật chất và vẻ đẹp tâm hồn, tuy chẳng còn phải tuổi thiếu nữ đôi mươi nhưng người phụ nữ này vẫn giữ cho mình một tâm hồn yêu nghệ thuật, cô vẫn giữ mối quan hệ với những văn nhân, nghệ sĩ, giữ cho tâm hồn biết yêu và trân trọng vẻ đẹp tinh thần.

Gần ba mươi tuổi, cô Hiền mới đi lấy chồng, “đùa vui một thời son trẻ thế là đủ” đã đến lúc làm một người vợ hiền, một người mẹ tốt, cô không chọn “một ông quan nào hết” hay một người văn nghệ sĩ, cô chọn lấy một ông giáo tiểu học “hiền lành, chăm chỉ, khiến cả Hà Nội phải kinh ngạc”. Người phụ nữ này chắc hẳn nổi tiếng cả Hà thành, cô đã có những tính toán cho cuộc đời mình, khi đứng trước ngã rẽ cuộc đời cô lựa chọn một lối đi an toàn nhất nhưng cũng hoàn hảo nhất.

Cô Hiền có tất cả, từ gia thế cho tới ngoại hình, trí tuệ, cô biết mình cần gì và muốn gì, quyết định chọn một nhà giáo tri thức lại hiền lành, chăm chỉ sẽ mang lại cho cô một gia đình hạnh phúc trọn vẹn. Khi là người vợ, người mẹ cô tính toán chu toàn cho tương lai của những đứa con mình, đây quả thực là một người phụ nữ tài sắc vẹn toàn, dám nghĩ dám làm, khi đã làm thì không sợ đàm tiếu, thị phi thiên hạ. Bất kể là bản lĩnh hay trí tuệ cô đều có thừa, thật khiến người kinh khâm phục, kính nể bội phần.

Cô Hiền được tác giả miêu tả như “nội tướng”, mọi việc trong gia đình đều do một tay cô thu xếp chu toàn. Cô tài giỏi trong việc kinh tế lẫn quản lý gia đình, đưa cho chồng những lời khuyên đúng đắn kịp thời, mở một cửa hàng hoa giả mang lại thu nhập cho gia đình, cô bán đi một dinh cơ cho người bạn ở kháng chiến về. Chỉ bằng những hành động trên, ta hoàn toàn có thể cảm nhận được cô Hiền là người rất thức thời, và có trí tuệ hơn người.

Cô và gia đình sống như một nhà tư sản ở trong một “toà nhà toạ lạc ngay tại một đường phố lớn”, “mùa đông ông mặc áo ba-xờ-xuy, đi giày da, bà mặc áo măng-tô”, “bàn ăn trải khăn trắng, giữa bàn có một lọ hoa”,… Họ vẫn giữ nếp sống Hà thành giữa thời cuộc đổi thay nhưng lại chẳng thấp thỏm lo sợ, cũng chẳng cần để tâm đến lời dị nghị xung quanh bởi vì cô Hiền biết đâu là chuẩn mực, là giới hạn, để giữ cho mình không đủ “tiêu chuẩn” thành tư sản, chẳng cần “bóc lột” ai mọi việc đều tự sức mình mà làm.

Cô tự tin khẳng định với những bà bạn của mình “các bà không biết nhưng nhà nước lại rất biết”, câu nói là thể hiện lòng tin tuyệt đối vào chế độ mới, lòng yêu nước mãnh liệt, dạt dào. Trong nuôi dạy con cái, cô là người mẹ mẫu mực, nghiêm khắc, cô dạy các con từ cách ngồi, cách ăn và cả nói chuyện, đi đứng, dạy cho chúng “không được sống tuỳ tiện, buông tuồng”. Cô truyền dạy cho con lối sống, văn hoá người Hà Nội, khắc sâu vào tâm trí chúng lòng yêu nước và trách nhiệm cao cả với Tổ quốc.

Trong những năm kháng chiến chống Mỹ, là một người mẹ chứng kiến đứa con mình ra chiến trường bon đạn, đối diện với sinh ly tử biệt, mặc dù lo lắng, đau lòng nhưng cô vẫn để con đi. Cô Hiền là một người mẹ mẫu mực, tôn trọng quyết định của con, sống có lòng tự trọng, cô không muốn Dũng “sống bám vào sự hy sinh của bạn bè”.

Ra đi là bảo vệ Tổ quốc, hy sinh cho Tổ quốc không thể có sự ích kỷ, hẹp hòi len lỏi trong tâm trí. Dù đứng ở cương vị nào, cô Hiền vẫn giữ được cốt cách thanh cao, lối cư xử rất đỗi mẫu mực. Nguyễn Khải ví cô như “hạt bụi vàng” là cách ông thể hiện sự yêu quý, trân trọng trước vẻ đẹp trí tuệ và nhân cách của con người Hà Nội.

Nguyễn Khải sáng tạo hình tượng người kể chuyện xuất hiện xuyên suốt chiều dài tác phẩm, theo giọng kể chiêm nghiệm và đầy triết lý của nhân vật vùng đất Hà thành và con người nơi đây hiện lên một cách sinh động, hóm hỉnh và rất chân thật. Tác giả đã rất thành công trong nghệ thuật trần thuật, ông nhìn sự vật, hiện tượng dưới nhiều góc độ và với nhiều cách đánh giá, ngôn ngữ thay đổi linh hoạt, giàu biểu cảm. Các chi tiết nghệ thuật “hạt bụi vàng”, “cây si cổ thụ”,… rất đặc sắc đã góp phần khắc sâu vẻ đẹp con người Hà Nội trong lòng người đọc.

Một người Hà Nội của Nguyễn Khải là truyện ngắn rất đặc sắc và để lại giá trị to lớn cho nề văn học nước nhà. Trong cái nhìn của ông, con người của mảnh đất kinh kỳ hiện lên với vẻ đẹp đậm màu truyền thống, nét đẹp riêng biệt không thể trộn lẫn với bất kỳ nơi đâu. Với sức sống bền bỉ, lòng yêu mến cái đẹp từ ngàn năm lịch sử, người Hà Nội đang bài trừ những cái xấu xa đang du nhập vào nền văn hoá, người người, nhà nhà vẫn giữ nếp sống thanh cao, kiêu hãnh vốn có của mình.

Trên đây là Tổng hợp các bài văn nghị luận về tác phẩm Một người Hà Nội – Nguyễn Khải do dean2020.edu.vn đã tổng hợp và chia sẻ đến các bạn. Hi vọng các bạn sẽ chọn cho mình một bài văn nghị luận thích hợp để phân tích tác phẩm Một người Hà Nội – Nguyễn Khải hay nhé! Chúc các bạn học tốt!

Related Posts

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *