Nhà Văn Haruki Murakami – Tiểu sử, cuộc đời và sự nghiệp

Haruki Murakami là nhà văn nổi tiếng người Nhật, ngòi bút của ông được xem là ánh sao sáng trên nền trời văn học xứ sở hoa anh đào bởi lối viết chuyên về thế giới nội tâm con người. Tuy có phần mộng mị và ảm đạm nhưng các tác phẩm của Haruki Murakami đều mang lại cho độc giả nhiều cảm xúc thăng trầm khi đi sâu vào những mặt trái đen tối của tâm hồn, từ đó tạo nên phong cách văn chương riêng biệt cho người nghệ sĩ tài hoa. Dưới đây là những thông tin liên quan đến tiểu sử, cuộc đời và sự nghiệp của Nhà Văn Haruki Murakami,cùng tham khảo nhé!

Tiểu sử và những năm đầu đời

Murakami sinh ra ở Kyoto, Nhật Bản, trong thời kỳ bùng nổ trẻ em sau Thế chiến thứ hai và lớn lên ở Shukugawa (Nishinomiya), Ashiya và Kobe. Anh là con một. Cha của ông là con trai của một tu sĩ Phật giáo, và mẹ của ông là con gái của một thương gia Osaka. Cả hai đều dạy văn học Nhật Bản.

Tiểu sử và những năm đầu đời

Từ thời thơ ấu, Haruki Murakami tương tự như Kōbō Abe, đã bị ảnh hưởng nặng nề bởi văn hóa phương Tây, đặc biệt là âm nhạc và văn học phương Tây, cũng như âm nhạc và văn học Nga. Lớn lên, ông đọc nhiều tác phẩm của các nhà văn Âu Mỹ như Franz Kafka, Gustave Flaubert, Charles Dickens, Kurt Vonnegut, Fyodor Dostoyevsky, Richard Brautigan và Jack Kerouac. Những ảnh hưởng phương Tây này phân biệt Murakami với phần lớn các nhà văn Nhật Bản khác.

Haruki Murakami học kịch tại Đại học Waseda ở Tokyo, nơi anh gặp vợ mình, Yoko. Công việc đầu tiên của anh là tại một cửa hàng băng đĩa, giống như Toru Watanabe, người kể chuyện Rừng Nauy. Không lâu trước khi hoàn thành việc học, Murakami đã mở một quán cà phê và quán bar nhạc jazz, Peter Cat, ở Kokubunji, Tokyo. Quán cà phê này do ông điều hành cùng vợ, từ năm 1974 đến năm 1981. Cặp đôi quyết định không sinh con.

Sự nghiệp viết lách của Haruki Murakami

Trilogy of the Rat (tạm dịch Bộ ba Chuột)

Murakami bắt đầu viết tiểu thuyết khi ông 29 tuổi. Trước đó, ông nói, “Tôi không viết gì cả. Tôi chỉ là một trong những người bình thường. Tôi đang điều hành một câu lạc bộ nhạc jazz, và tôi không tạo ra bất kỳ điều gì khác.” Ông được truyền cảm hứng để viết cuốn tiểu thuyết đầu tiên của mình – Hear the Wind Sing (1979), khi đang xem một trận đấu bóng chày.

Năm 1978, Haruki Murakami đang ở Sân vận động Jingu để xem trận đấu giữa Yakult Swallows và Hiroshima Carp thì Dave Hilton tiến đến đánh bóng. Theo một câu chuyện được nhắc đi nhắc lại, ngay khi Hilton đạt được cú đúp, Murakami đột nhiên nhận ra rằng mình có thể viết một cuốn tiểu thuyết. Anh về nhà và bắt đầu viết ngay đêm hôm đó. Murakami đã dành mười tháng để hoàn thành “Hear the Wind Sing”. Ông đã hoàn thành cuốn tiểu thuyết và gửi nó đến cuộc thi văn học duy nhất chấp nhận một tác phẩm có độ dài như vậy. Và ông giành được giải nhất.

Sự nghiệp viết lách của Haruki Murakami

Thành công ban đầu của Haruki Murakami với “Hear the Wind Sing” đã khuyến khích ông tiếp tục viết. Một năm sau, ông xuất bản phần tiếp theo – Pinball. Năm 1982, ông xuất bản “A Wild Sheep Chase”, đây được xem là một thành công về mặt văn học phê bình. “Hear the Wind Sing”, “Pinball” và “A Wild Sheep Chase” tạo thành “Trilogy of the Rat” , tất cả xoay quanh cùng một người kể chuyện giấu tên và bạn của “the Rat.”

Haruki Murakami coi hai cuốn tiểu thuyết đầu tiên của mình là “non nớt” và “mỏng manh”, và không háo hức dịch chúng sang tiếng Anh. Ông nói, A Wild Sheep Chase là “cuốn sách đầu tiên mà tôi có thể cảm nhận được một loại cảm xúc, niềm vui khi kể một câu chuyện. Khi bạn đọc một câu chuyện hay, bạn cứ tiếp tục đọc. Khi tôi viết một câu chuyện hay, tôi chỉ tiếp tục viết.”

Được công nhận rộng hơn

Năm 1985, Haruki Murakami viết “Hard-Boiled Wonderland” and “the End of the World”, một bộ truyện giả tưởng đẹp như mơ đưa các yếu tố ma thuật trong tác phẩm của ông lên một thái cực mới. Murakami đã đạt được một bước đột phá lớn và được quốc gia công nhận vào năm 1987 với việc xuất bản Rừng Na Uy. Một câu chuyện hoài niệm về mất mát và tình dục. Nó đã bán được hàng triệu bản trong giới trẻ Nhật Bản.

“Norwegian Wood” đã đưa Haruki Murakami ít được biết đến trở thành tâm điểm. Ông đã bị đám đông bao vây tại các sân bay và những nơi công cộng khác, dẫn đến việc ông rời Nhật Bản vào năm 1986. Murakami đã đi qua châu u và cuối cùng định cư tại Hoa Kỳ.

Haruki Murakami là trợ giảng văn học tại Đại học Princeton ở Princeton, New Jersey, Đại học Tufts ở Medford, Massachusetts và Đại học Harvard ở Cambridge, Massachusetts. Trong thời gian này, ông viết “South of the Border”, “West of the Sun” và “The Wind-Up Bird Chronicle”.

Giai đoạn chuyển tiếp về nhận thức của Haruki Murakami

The Wind-Up Bird Chronicle (Biên Niên Ký Chim Vặn Dây Cót – 1995) là một cuốn tiểu thuyết kết hợp giữa hiện thực và huyền ảo. Đồng thời chứa đựng các yếu tố bạo lực thể xác. Nó cũng có ý thức xã hội hơn so với tác phẩm trước của ông, một phần đề cập đến chủ đề khó khăn về tội ác chiến tranh ở Manchukuo (Đông Bắc Trung Quốc). Cuốn tiểu thuyết đã giành được giải thưởng Yomiuri, được trao bởi một trong những nhà phê bình khắt khe nhất của ông, Kenzaburō Ōe, người đoạt giải Nobel Văn học năm 1994.

Xử lý chấn thương tập thể nhanh chóng trở thành một chủ đề quan trọng trong sáng tác của Murakami, người mà trước đây mang tính cá nhân nhiều hơn. Haruki Murakami trở về Nhật Bản sau trận động đất Kobe và vụ tấn công bằng khí Aum Shinrikyo. Anh chấp nhận những sự kiện này thông qua tác phẩm phi hư cấu đầu tiên của mình – “Underground”, và tuyển tập truyện ngắn sau trận động đất. Underground phần lớn bao gồm các cuộc phỏng vấn các nạn nhân của vụ tấn công bằng khí gas trong hệ thống tàu điện ngầm Tokyo.

Bản thân Murakami cũng đề cập rằng ông đã thay đổi vị trí của mình từ một trong những “người cô lập” thành một “tập thể” sau khi ở lại Hoa Kỳ vào năm 1991. Ông nói rằng những cuốn sách đầu tiên của ông bắt nguồn từ bóng tối cá nhân. Trong khi các tác phẩm sau giai đoạn này của ông khai thác vào bóng tối trong xã hội và lịch sử.

Bản dịch tiếng Anh của nhiều truyện ngắn mà ông viết từ năm 1983 đến 1990 đã được tập hợp lại trong The Elephant Vanishes. Murakami cũng đã dịch nhiều tác phẩm của F. Scott Fitzgerald, Raymond Carver, Truman Capote, John Irving, và Paul Theroux và nhà văn khác sang tiếng Nhật.

Haruki Murakami đóng một vai trò tích cực trong việc dịch tác phẩm của mình sang tiếng Anh. Ông khuyến khích “chuyển thể” các văn bản sang giọng văn Mỹ một cách tự nhiên hơn là dịch trực tiếp.

Giai đoạn sau 2000

Sputnik Sweetheart được xuất bản lần đầu tiên vào năm 1999, tiếp theo là Kafka on the Shore vào năm 2002, với bản dịch tiếng Anh sau đó vào năm 2005. Kafka on the Shore đã giành được Giải thưởng Thế giới về Tiểu thuyết vào năm 2006. Phiên bản tiếng Anh của cuốn tiểu thuyết After Dark được phát hành tại Tháng 5 năm 2007 và được The New York Times chọn là “cuốn sách đáng chú ý của năm”.

Vào cuối năm 2005, Murakami đã xuất bản một tuyển tập truyện ngắn có tựa đề Tōkyō Kitanshū, hay 東京 奇 譚 集, tạm dịch là “Bí ẩn của Tokyo.” Bộ sưu tập phiên bản tiếng Anh của hai mươi bốn truyện ngắn, có tựa đề Blind Willow, Sleeping Woman, được xuất bản vào tháng 8 năm 2006. Bộ sưu tập này bao gồm cả các tác phẩm cũ hơn từ những năm 1980 cũng như một số truyện ngắn gần đây hơn của Murakami, bao gồm cả năm tác phẩm đó xuất hiện trong Tōkyō Kitanshū.

Vào giai đoạn này, Haruki Murakami tiếp tục cho ra nhiều tác phẩm mới

Năm 2002, Haruki Murakami xuất bản tuyển tập Birthday Stories (Những câu chuyện sinh nhật), tập hợp các truyện ngắn về chủ đề sinh nhật. Bộ sưu tập bao gồm tác phẩm của Russell Banks, Ethan Canin, Raymond Carver, David Foster Wallace, Denis Johnson, Claire Keegan, Andrea Lee, Daniel Lyons, Lynda Sexson, Paul Theroux và William Trevor, cũng như những câu chuyện của chính Murakami. “What I Talk About When I Talk About” bao gồm những câu chuyện về trải nghiệm của chính ông với tư cách là một vận động viên marathon cũng như một vận động viên ba môn phối hợp. Sách được xuất bản tại Nhật Bản vào năm 2007, với bản dịch tiếng Anh được phát hành ở Anh và Mỹ vào năm 2008.

Nhà xuất bản Shinchosha xuất bản cuốn tiểu thuyết 1Q84 của Murakami tại Nhật Bản vào ngày 29 tháng 5 năm 2009. 1Q84 được phát âm là “ichi kyū hachi yon”, giống như năm 1984. Số 9 cũng được phát âm là “kyū” trong tiếng Nhật. Cuốn sách đã được lọt vào danh sách bình chọn cho Giải thưởng Văn học Châu Á năm 2011. Tuy nhiên, sau các cuộc biểu tình chống Nhật ở Trung Quốc vào năm 2012, sách của Murakami cùng với sách của các tác giả Nhật Bản khác đã bị cấm bán ở Trung Quốc.

Haruki Murakami chỉ trích tranh chấp lãnh thổ chính trị Trung Quốc-Nhật Bản. Ông mô tả phản ứng mang tính chủ nghĩa dân tộc quá mức mà các chính trị gia đang truyền bá cho công chúng là “rượu rẻ tiền”. Vào tháng 4 năm 2013, ông xuất bản cuốn tiểu thuyết “Colorless Tsukuru Tazaki and His Years of Pilgrimage”. Nó đã trở thành một cuốn sách bán chạy nhất quốc tế nhưng nhận được nhiều đánh giá trái chiều.

Phê bình và ảnh hưởng

Những tiểu thuyết của Murakami, thường bị những tổ chức văn học Nhật Bản chỉ trích là văn học “bình dân”, thường hài hước và mang tính siêu thực, cùng một lúc phản ánh sự ham muốn, nỗi cô đơn, và khao khát tình yêu khiến độc giả khắp Hoa Kỳ, Châu Âu cũng như Đông Á phải xúc độn. Hơn nữa, những tác phẩm của Murakami cũng bị chỉ trích do cách mô tả của ông về sự ám ảnh tư bản của Nhật Bản. Thông qua tác phẩm của mình, ông có thể nắm bắt được cảm giác trống rỗng về linh hồn của những con người cùng thế hệ với ông và khám phá ra những tác động tiêu cực của tâm lý hướng về công việc của Nhật Bản. Tác phẩm của ông phê bình sự suy giảm trong giá trị người phụ nữ và sự mất mát mối quan tâm giữa con người với nhau trong xã hội tư bản nước Nhật.

Phê bình và ảnh hưởng

Vào năm 2006, Murakami trở thành người thứ sáu giành Giải thưởng Franz Kafka, giải mà trước đó đã trao cho người đạt Giải Nobel Văn học Harold Pinter và Elfriede Jelinek. Chính Murakami cũng đã được xem là một tiềm năng cho giải Nobel. Nếu được nhận giải, ông sẽ trở thành người Nhật thứ ba, sau Kawabata Yasunari và Oe Kenzaburo.

Murakami được trao Giải thưởng Kiriyama dành cho Tiểu thuyết năm 2007 với tập truyện ngắn Cây liễu mù, người đàn bà ngủ nhưng, theo Trang web chính thức của Kiriyama, Murakami “đã từ chối nhận giải vì lý do cá nhân”.

Murakami bị chúc mừng nhầm vì tưởng đã đoạt Giải Nobel Văn học năm 2006 trên trang chủ của thư viện phố ở quê nhà Ashiya của ông, nhưng đó là lỗi ở thư viện.

Các tác phẩm nổi bật của nhà văn Murakami

Các tác phẩm nổi bật của nhà văn Murakami

Các bản dịch tiếng Việt

  • Lắng nghe gió hát (Tên gốc: Kaze no uta wo kike), dịch giả: Nguyễn Hồng Anh (Nhã Nam)
  • Rừng Na Uy (Tên gốc: Noruwei no mori), dịch giả: Trịnh Lữ (Nhã Nam, 2006)
  • Biên niên ký chim vặn dây cót (Tên gốc: Nejimaki-dori kuronikuru), dịch giả: Trần Tiễn Cao Đăng, (Nhã Nam,2006)
  • Phía Nam biên giới, Phía Tây mặt trời (Tên gốc: Kokkyō no minami, taiyō no nishi), dịch giả: Cao Việt Dũng (Nhã Nam,2007)
  • Kafka bên bờ biển, (Tên gốc: Umibe no Kafuka), dịch giả: Dương Tường (Nhã Nam, 2007)
  • Sau nửa đêm (Nhà xuất bản Công an Nhân dân, 2007)
  • Truyện ngắn Murakami Haruki, nghiên cứu và phê bình, dịch giả: Hoàng Long, (Nhà xuất bản Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, 2006)
  • Người tình Sputnik, dịch giả: Ngân Xuyên, (Nhã Nam, 2008)
  • Ngầm (Tên gốc: Andāguraundo), dịch giả: Trần Đĩnh (Nhã Nam, 2009)
  • Xứ sở diệu kỳ tàn bạo và chốn tận cùng thế giới (tên gốc: Sekai no Owari to Hādoboirudo Wandārando) dịch giả: Lê Quang (Nhã Nam, 2010)
  • Tôi nói gì khi nói về chạy bộ (Tên gốc: Hashiru koto ni tsuite kataru toki ni boku no kataru koto), dịch giả: Thiên Nga (Nhã Nam, 2011)
  • Nhảy Nhảy Nhảy (Tên gốc: Dansu Dansu Dansu), dịch giả: Trần Vân Anh (Nhã Nam, 2011)
  • 1Q84 (trọn bộ 3 tập) (Tên gốc: Ichi-Kyū-Hachi-Yon), dịch giả: Lục Hương (Nhã Nam, 2012)
  • Tazaki Tsukuru không màu và những năm tháng hành hương, (Tên gốc: Shikisai wo motanai Tazaki Tsukuru to, kare no junrei no toshi), dịch giả: Uyên Thiểm (Nhã Nam, 2014)
  • Những người đàn ông không có đàn bà (Tên gốc: Onna No Inai Otokotachi) dịch giả: Trương Thuỳ Lan (Nhã Nam, 2018)
  • Giết chỉ huy đội kỵ sĩ – 2 tập (Tên gốc: Kishidanchō-goroshi)) dịch giả: Mộc Miên (Nhã Nam, 2020)

Các tập truyện ngắn do Phạm Vũ Thịnh dịch và Nhà xuất bản Đà Nẵng ấn hành:

  • Ngày đẹp trời để xem Kangaroo (18 truyện)
  • Đom đóm
  • Sau cơn động đất
  • Người Ti-vi (14 truyện)
  • Bóng ma ở Lexington (14 truyện)

Danh sách giải thưởng

Giải thưởng cho các tác phẩm

  • 1979: Giải thưởng Gunzo (tiểu thuyết đầu tay hay nhất) cho Hear the Wind Sing
  • 1982: Giải thưởng văn học Noma (tác phẩm mới xuất sắc nhất) cho A Wild Sheep Chase
  • Năm 1985: Giải thưởng Tanizaki cho Hard-Boiled Wonderland và the End of the World
  • 1995: Giải Yomiuri (tiểu thuyết hay nhất) cho The Wind-Up Bird Chronicle
  • 1999: Kuwabara Takeo Prize cho Underground
  • 2006: Giải World Fantasy (tiểu thuyết hay nhất) cho Kafka on the Shore
  • 2006: Giải thưởng Truyện ngắn Quốc tế Frank O’Connor cho Blind Willow, Sleeping Woman

Murakami cũng đã được trao Giải thưởng Kiriyama năm 2007 cho Sách hư cấu cho tập truyện ngắn Blind Willow (Cây liễu mù), Sleeping Woman (Người đàn bà ngủ). Nhưng theo trang web chính thức của giải, Murakami “từ chối nhận giải vì lý do cá nhân”.

Giải thưởng cá nhân

  • Năm 2006, Murakami trở thành người thứ sáu nhận Giải thưởng Franz Kafka.
  • Vào tháng 1 năm 2009, Murakami nhận được Giải thưởng Jerusalem, một giải thưởng văn học hai năm một lần được trao cho các nhà văn có tác phẩm đề cập đến các chủ đề về tự do con người, xã hội, chính trị và chính phủ.
  • Năm 2011, Murakami đã quyên góp 80.000 euro nhận được từ Giải thưởng Catalunya (từ Tổng cục Catalunya) cho các nạn nhân của trận động đất và sóng thần ngày 11 tháng 3, cũng như những người bị ảnh hưởng bởi thảm họa hạt nhân Fukushima.
  • Vào tháng 10 năm 2014, ông đã được trao giải Welt-Literaturpreis
  • Tháng 4 năm 2015, Murakami được vinh danh là một trong những người có ảnh hưởng nhất của TIME 100.
  • Tháng 11 năm 2016, ông được trao Giải thưởng Văn học Hans Christian Andersen của Đan Mạch.

Trong những năm gần đây, Haruki Murakami thường được nhắc đến với tư cách là người có thể nhận giải Nobel Văn học. Tuy nhiên, vì tất cả các hồ sơ đề cử đều được niêm phong trong 50 năm kể từ khi trao giải, nên đó là suy đoán thuần túy. Khi được hỏi về khả năng được trao giải Nobel, Murakami đã cười đáp: “Không, tôi không muốn giải thưởng. Điều đó có nghĩa là bạn đã kết thúc”. Ông hiện đang sống ở Hoa Kỳ và là một vận động viên marathon, một sở thích mà ông có được vào năm 33 tuổi.

Trên đây, dean2020.edu.vn đã tổng hợp và chia sẻ đến các bạn những thông tin cơ bản về tiểu sử, cuộc đời và sự nghiệp của nhà văn nổi tiếng Haruki Murakami. Hy vọng với những chia sẻ của chúng tôi sẽ giúp bạn có thêm những thông tin mà bạn đang tìm kiếm về nhà văn Haruki Murakami nhé!

Related Posts

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *